Trần Quốc Việt dịch
Chúng ta hãy tóm tắt ngắn gọn những lý luận thường được đưa ra nhất để ủng hộ luận điểm cho rằng hệ thống xã hội cộng sản, dưới hình thức tồn tại như hiện nay, là không thể nào cải cách được. Những lý luận này cho rằng chức năng chính của hệ thống này là duy trì quyền lực độc quyền không bị kiểm soát của bộ máy cai trị; tất cả những thay đổi về thể chế hay thật sự đã diễn ra, hay những thay đổi ta tưởng tượng có thể diễn ra, nhất định không phá hoại nguyên tắc cơ bản mà tất cả các hành động chính trị và kinh tế của những kẻ cai trị đều phụ thuộc vào này. Vì độc quyền quyền lực chuyên chế không thể nào bị xoá bỏ từng phần ( lời tuyên bố này gần như là thừa vì theo định nghĩa độc quyền không thể nào là " từng phần " được). Như thế tất cả các thay đổi trong quá khứ và có thể tiên đoán được bên trong khuôn khổ của hệ thống này đều không quan trọng và đều có thể dễ dàng bị đảo ngược, vì chúng không thể nào được thể chế hoá nếu không phá vỡ toàn bộ cơ chế. Vì thế thỏa mãn được kỳ vọng cơ bản của giai cấp công nhân và trí thức là sự bất khả bên trong các giới hạn bị áp đặt bởi chức năng chính của hệ thống. Ở đây chúng ta bàn đến cơ chế hoàn toàn cứng ngắc, thiếu cơ cấu tự giám sát và có khả năng thay đổi chỉ khi nào đối diện với những tai hoạ dữ dội, mà tuy thỉnh thoảng cũng xảy ra, nhưng không để lại vết sẹo nào trên sinh lý của tổng thể, ngoại trừ một số nhượng bộ và tái tổ chức hời hợt bên trong phe phái cai trị. Chủ nghĩa Stalin theo đúng nghĩa, tức sự chuyên chế tàn bạo vô độ của một cá nhân, là hiện thân chính xác nhất của những tiên đề thực tế của hệ thống; những thay đổi về sau này, đặc biệt sự giảm đi đáng kể những hình thức cầm quyền khủng bố, dù có quan trọng xét theo quan điểm an ninh của cá nhân, nhưng vẫn hoàn toàn không thay đổi bản chất chuyên chế của hệ thống hay giới hạn những hình thức trấn áp và bóc lột đặc trưng xã hội chủ nghĩa. Vì những chức năng cơ bản của hệ thống xã hội này là nhằm chống lại xã hội, từ đấy tước đoạt đi bất kỳ phương tiện tự vệ nào được hiến pháp quy định, nên sự thay đổi duy nhất có thể hình dung ra vì thế phải mang hình thức cuộc cách mạng bạo lực. Hơn nữa, cuộc cách mạng như thế chỉ có thể diễn ra trên phạm vi toàn bộ hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, vì như kinh nghiệm đã cho thấy, ưu thế quân sự Xô Viết sẽ luôn luôn được dùng để dẹp tan những mưu toan cách mạng địa phương. Thành quả của cuộc cách mạng này, theo hy vọng của một số người, sẽ là xã hội chủ nghĩa theo ý nghĩa được truyền thống Mác-xít xác định rõ ràng (tức tổ chức xã hội các quá trình sản xuất và phân phối và xác lập hệ thống đại diện) hay - theo những người khác - sẽ là sự du nhập mô hình chủ nhĩa tư bản của Châu Âu, mà dường như sẽ là con đường phát triễn đáng tin tưởng duy nhất khi đối diện với cảnh phá sản kinh tế và ý thức hệ của chủ nghĩa xã hội.
Đây là những đặc trưng cơ bản của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô Viết mà xác định, theo hướng lý luận này, rằng tất cả những hy vọng về "sự nhân đạo hoá" từng phần, dần dần, nhờ đưa ra những cải cách liên tiếp ắt hẳn là ảo vọng ( ở đây chúng ta đề cập đến những đặc trưng "cấu trúc" người ta có thể phát hiện ra ở tất cả các nước xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hình thái Xô Viết.)
(1) Theo mô hình này điều thường được gọi là "dân chủ hoá" hệ thống cầm quyền là không tưởng. Vì chuyên chế chính trị và độc quyền của bộ máy cai trị trong việc kiểm soát phương tiện sản xuất, đầu tư, việc làm, và phân chia thu nhập quốc gia đều phụ thuộc lẫn nhau. Độc quyền chính trị của nhóm nhỏ cai trị phụ thuộc vào địa vị của nó như là người chủ duy nhất và đồng thời như là người kiểm soát duy nhất phương tiện sản xuất. Như vậy mỗi sự vận động theo chiều hướng dân chủ chính trị, nếu thật sự, cho dù có từng phần thế nào chăng nữa, vẫn là sự tước đi chỉ một phần giai cấp cai trị, mà, tuy không phải người chủ hợp pháp phương tiện sản xuất, nhưng vẫn có tất cả các quyền và đặc quyền của người chủ tập thể. Trong lĩnh vực nền tảng này, tất cả những gì trái với nguyên tắc này đều là ảo tưởng: ta có thể an tâm cho phép công nhân thảo luận về nơi làm việc của họ và ta có thể cho phép các uỷ ban của Sejm, "quốc hội" dưới bóng của bộ máy Đảng, được phép thảo luận các chi tiết về chính sách kinh tế. Tuy nhiên bằng cách này hay cách khác mọi quyết định đều do cùng các tổ chức đưa ra, và các tổ chức này hoàn toàn không bị xã hội kiểm soát. Bất kỳ bất đồng nếu có nào, được biểu lộ qua thảo luận, trái với ý muốn của những tổ chức này đều chẳng có ý nghĩa gì vì do sự kiểm soát thông tin chi tiết, bất đồng ấy sẽ không có thể tạo thành áp lực xã hội. Tất cả các kế hoạch cải cách được các nhà kinh tế đề xuất đều nhắm vào việc làm suy yếu đáng kể độc quyền của bộ máy cai trị về các quyết định kinh tế và đe doạ tước đi một phần của nó; như thế các kế hoạch ấy không có cơ may thành công.
(2) Khuynh hướng tự nhiên của hệ thống là sự giảm liên tục vai trò của các chuyên gia, đặc biệt trong lĩnh vực chính sách kinh tế, xã hội và văn hoá. Chế độ chấp nhận các nhóm chuyên gia, chừng nào họ không đòi hỏi cho mình bất kỳ quyền được ra quyết định nào, nhưng ngay cả trong khả năng cố vấn thuần tuý này, như kinh nghiệm đã cho thấy, các chuyên gia cũng được chấp nhận một cách miễn cưỡng và họ sẽ bị loại bỏ hay bị thay thế bởi các tổ chức giả hiệu được chọn trước theo tiểu chuẩn tôi tớ chính trị. Để cho phép các chuyên gia có bất kỳ vai trò thật sự ý nghĩa nào trong việc ra quyết định sẽ nhất thiết phải giảm đi phạm vi quyền lực của tầng lớp cai trị. Như thế sự kém hiệu quả, sự phí phạm năng lực xã hội và vật chất, sự cai trị của các kẻ bất tài, nói một cách khác, tất cả đều là thuộc về bản chất của cơ chế chính quyền cho nên không thể nào được xem như là những khiếm khuyết tạm thời có thể sửa được trong tương lai. Cơ chế ấy không cho phép những tiêu chuẩn "kỹ thuật" thuần tuý, mà không lệ thuộc vào chức năng duy trì và củng cố quyền lực hiện hành, có bất kỳ ảnh hưởng nào đến sự vận hành của nó.
(3)Là điều kiện không thể nào thiếu được cho hoạt động có hiệu quả của cả kinh tế và giáo dục và văn hoá, tự do thông tin tự nhiên là điều không tưởng nếu không có sự sụp đổ tan tành của toàn bộ hệ thống chính quyền, mà, trong điều kiện tự do trao đổi thông tin, tất yếu sẽ sụp đổ trong thời gian ngắn. Hơn nữa, nguyên tắc thông tin hạn chế, theo đó thông tin được phổ biến đến những kẻ cai trị theo một liều lượng tương ứng với chức vụ của họ trong tầng lớp cầm quyền, lại không thể nào áp dụng được. Nói một cách khác, những kẻ cai trị, mặc dù họ có thể dối mình về chuyện này, và ngay cả tích cực tìm kiếm thông tin không bị nguỵ tạo để thủ lợi riêng, nhưng họ tất yếu sẽ nhận được thông tin không đúng và rồi sẽ, thỉnh thoảng, lại trở thành nạn nhân của những lời nói dối của chính mình. Đã qua rồi cái thời khi Stalin xử lý những thông tin thống kê không đủ lạc quan bằng cách giết các nhà thống kê, rồi lấy thông tin về các nông trang trang tập thể từ các phim tuyên truyền. Tuy nhiên, việc loại bỏ những thông tin không đúng lố bịch một cách trắng tợn ấy vẫn không thay đổi được sự thật rằng thông tin không đúng là thuộc về bản chất của hệ thống. Đây là kết quả của ít nhất hai hoàn cảnh. Trước tiên, những người cung cấp thông tin nội bộ ấy, ở những cấp bậc thấp hơn trong bộ máy cai trị, lại thường nhất chính là những người chịu trách nhiệm về các vấn đề mà họ cung cấp thông tin. Do vậy hiện tượng bình thường, chứ không có gì khác thường cả, là thông tin bất lợi có thể tự tố cáo mình, cho nên ta hầu như không mong đợi là sẽ có nhiều người cung cấp thông tin bất lợi trên phạm vi lớn, và cũng bình thường là khi mang đến tin tức tốt thì được thưởng còn mang đến thông tin xấu thì bị trừng phạt. Như ta có thể đoán, hệ thống này tất yếu lan truyền và ảnh hưởng đến tất cả các loại người cung cấp thông tin. Mọi người đều biết đến vô số chuyện trừng phạt vì mang đến tin xấu. Thứ hai, việc thu thập thông tin về cuộc sống xã hội, muốn không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ điều gì ngoại trừ sự mong muốn xác lập tình trạng thật sự, sẽ cần thiết tạo ra một bộ máy rất lớn, không bị bất kỳ nghĩa vụ chính trị đặc biệt nào ràng buộc và được phép làm việc trong những điều kiện tự do hoàn toàn để ít ra tập hợp, nếu không phải truyền đạt, thông tin. Một bộ máy như thế sẽ không những là điều dị thường không tự nhiên bên trong hệ thống mà còn tạo nên nguồn bất ổn chính trị, vì xét theo chính bản chất của nó, nó sẽ là một tổ chức không bị các ràng buộc "ý thức hệ", và không cần thiết phải tuân phục ý thức hệ và như thế không làm tôi tớ cho chế độ. Thêm vào đấy, lượng thông tin lớn được thu nhập như thế này tất yếu sẽ gia tăng căng thẳng và xung đột trong nội bộ ở các cấp cao hơn trong bộ máy. Vì hầu như không có thông tin nào hoàn toàn trung lập, nên các thông tin không bị nguỵ tạo về cuộc sống xã hội ngay lập tức sẽ được các nhóm hay phe phái đấu đá muốn ngoi lên những chức vụ cao hơn khai thác nhằm chống lại những kẻ hiện đang nắm giữ các chức vụ này. Như vậy, mặc dù thoạt nhìn sự cai trị kiểu tự dối mình và tự lừa dối phổ quát này có thể tưởng như vô lý, song thực ra nó chính là một trong những phương tiện tự vệ được chế độ xử dụng. Đành rằng những nhóm cai trị thỉnh thoảng trả giá cho những lời nói dối do chính họ bịa ra, nhưng xét cho cùng họ vẫn có lợi khi chấp nhận những phí tổn này (càng lợi hơn vì xã hội gánh chịu phần lớn phí tổn ấy) mà dường như tăng gia sự ổn định và an ninh của chính quyền.
(4) Đặc trưng nữa của chủ nghĩa xã hội theo phiên bản Xô Viết hiện nay là sự xuống cấp tất yếu về tinh thần và đạo đức của bộ máy cai trị có quyền ra những quyết định sinh tử ảnh hưởng đến cuộc sống xã hội. Sự xuống cấp này cũng thuộc về bản chất trong hoạt động của guồng máy chính trị chứ không phải xuất phát từ ác ý hay thiện ý của những kẻ cai trị. Cơ chế này đòi hỏi sự tuân phục tuyệt đối bên trong tầng lớp cầm quyền, vốn gắn liền mật thiết với nguyên tắc độc quyền quyền lực. Theo đó, như trong tất cả các hệ thống chuyên chế, những đặc điểm thật sự tích cực trên con đường công danh của cá nhân (tức những đặc điểm giúp cá nhân dễ dàng tiến lên trên từng nấc thang quyền lực của tầng lớp cầm quyền) là sự tôi tớ, hèn nhát, thiếu sáng kiến, sẵn sàng vâng lệnh cấp trên, sẵn sàng chỉ điểm người khác, là thờ ơ với công luận xã hội và quyền lợi quần chúng. Ngược lại, khả năng đề xuất sáng kiến, quan tâm đến ích lợi chung và trung thành với sự thật, tài giỏi và lưu tâm đến xã hội, chứ không lưu tâm đến quyền lợi của bộ máy cai trị, lại trở thành những đặc điểm cản trở sự thăng tiến của cá nhân. Như thế cơ chế quyền lực này tạo ra sự chọn lọc tiêu cực tự nhiên các cán bộ lãnh đạo trong tất cả các cấp ngành của bộ máy cai trị, nhưng, quan trọng nhất trong bộ máy Đảng. Mười bốn năm cầm quyền của Gomulka ở Ba Lan chính là sự khẳng định rõ ràng nhất của sự thật này. Đặc điểm nổi bật nhất của họ là sự loại bỏ có hệ thống những cá nhân có tài và có sáng kiến và thay vào đó là những kẻ tầm thường giỏi quỵ luỵ và hèn nhát. Quá trình này diễn ra từ tháng Ba năm 1968 trở đi như việc thăng cấp hàng loạt những kẻ dốt nát, các tay chỉ điểm hay bọn du côn đần độn (những kẻ mà người dân ở Warsaw gọi "những con rận xông vào nhà ") chỉ là sự tăng tốc và đẩy mạnh hiện tượng vốn đã diễn ra trong suốt nhiều năm trời. Giống như mọi sự trên đời này, ta có thể nêu ra các ngoại lệ, nhưng ngoại lệ thì không nhiều. Đôi lúc người ta có thể nhìn thấy quá trình ngược lại vào những thời điểm rất quan trọng, nhưng chúng không thay đổi khuynh hướng cơ bản của hệ thống, mà, tất yếu phải coi sự tài giỏi và khả năng đề xuất sáng kiến như là hiện tượng thù nghịch với chính nó. Các cấp ngành khác nhau của guồng máy cai trị trải qua quá trình chọn lọc tiêu cực theo những cấp độ khác nhau, để trong quản trị kinh tế và công nghiệp người ta vẫn luôn luôn có thể thấy một số đáng kể những người có tài và can đảm phải đập mạnh đầu họ nhiều lần vào bức tường thờ ơ, sợ hãi và bất tài dựng lên quanh bộ máy Đảng và các ngành chính trị và tuyên truyền của nó, nơi nguyên tắc chọn lọc những phần tử tệ hại nhất đạt được chiến thắng rực rỡ nhất.
(5) Những hình thức chính quyền chuyên chế tất yếu tạo ra nhu cầu xâm lược thường trực, hay ít ra được định kỳ lập lại. Trong nhiều thế kỷ người ta biết rằng cuộc chiến tranh đó là mồ chôn đối với nền dân chủ. Vì lý do này chiến tranh xâm lược cũng là đồng minh của chế độ độc tài. Trong trường hợp không có chiến tranh ở nước ngoài, những hình thức trấn áp khác nhau ở trong nuớc cũng thực hiện chức năng tương tự nhằm mục đích duy trì tình trạng đe doạ trường kỳ và duy trì sự hoang tưởng nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, qua việc xử dụng những phương pháp xảo trá nhất và những kẻ thù không có thật nhất. Việc thường xuyên tung ra những hành động trấn áp tàn bạo chống lại những nhóm dân số liên tiếp, được chọn theo những tiêu chuẩn đa dạng nhất, hoàn toàn không phải là hậu quả của sự điên rồ, mà là chức năng thuộc về bản chất của một cơ chế quyền lực không thể nào mà không có những kẻ tử thù nằm mai phục để lợi dụng điểm yếu ít quan trọng nhất của nó, vì chỉ như thế này nó mới đảm bảo sự sẵn sàng động viên cần thiết. Như thế cơ chế quyền lực phát minh ra các kẻ thù, và trong quá trình phát minh ấy lại tạo ra những kẻ thù thật, vì những hành động trấn áp thường xuyên tất yếu sẽ nuôi dưỡng sự thù nghịch và chống đối ở những người dân bị trấn áp rồi đưa đến hoàn cảnh nơi trấn áp có thể được biện minh là cần thiết. Như thế hệ thống trấn áp do tự mình tạo ra, và những hành động trấn áp ở trong nuớc tự thân chúng sẽ tạo ra nhu cầu trấn áp thêm nữa.
(6)Chính nguyên tắc độc quyền quyền lực này tạo ra sự cần thiết khích thích sự tan rã của xã hội và huỷ diệt tất cả các hình thức cuộc sống xã hội không được bộ máy cai trị cho phép. Vì những xung đột xã hội không bị loại trừ được, mà chỉ bị đè nén qua trấn áp và bị che đậy qua những từ ngữ ý thức hệ, nên những xung đột xã hội này tìm mọi cách thể hiện đa dạng nhất, do đó có nghĩa là ngay cả hình thức tổ chức xã hội vô hại nhất, nếu không bị công an kiểm soát đúng mức, có thể thật sự biến thành những trung tâm đối lập. Điều này phát sinh nhu cầu "quốc hữu hoá" tất cả các hình thức cuộc sống xã hội và tạo ra áp lực không ngừng nhằm mục đích huỷ diệt tất cả các mối quan hệ xã hội tự phát để ủng hộ những hội và đoàn thể giả hiệu mang tính bắt buộc của nhà nước mà chức năng duy nhất của chúng là thụ động và phá hoại và không đại diện cho bất kỳ quyền lợi của ai ngoại trừ quyền lợi của giai cấp thống trị. Mặc dù hệ thống cần kẻ thù, nhưng nó lại cực kỳ sợ bất kỳ hình thức đối lập nào có tổ chức; nó muốn có chỉ kẻ thù nào do nó tự chọn và có thể đánh trong những điều kiện nó chọn. Nhu cầu tự nhiên của chế độ chuyên chế là làm cho các cá nhân khiếp sợ bằng cách tước đi ở họ phương tiện chống đối có tổ chức. Một phương cách phục vụ chức năng này là sự ra đời bộ luật hình sự mà mập mờ và không rõ ràng một cách cố ý, để một số lượng càng nhiều càng tốt các công dân có thể cảm thấy sợ hãi và cảm thấy bị đối xử như tội phạm, và để tránh cho phạm vi trấn áp thật sự không bị ràng buộc bởi những điều khoản pháp lý được quy định nghiêm nhặt, mà phụ thuộc vào sự vận dụng tuỳ tiện và quyết định tuỳ tiện của công an và Đảng.
(7) Hơn nữa bộ máy cai trị không có tự do về vấn đề các quyền của công dân. Do sợ bị sụp đổ, chế độ dù lãnh đạo của nó có muốn cũng không thể nào mở rộng những quyền công dân này. Kinh nghiệm đã cho thấy rằng những sự nhượng bộ trước các đòi hỏi dân chủ thay vì tạo ra sự hài lòng với các thành quả cục bộ đạt được, ngược lại, lại trở thành lý do cho áp lực ngày càng gia tăng từ bên dưới rồi bắt đầu lớn dần lên như thác đổ đe doạ đến toàn bộ trật tự chính trị. Ách nô lệ quá nặng tròng lên xã hội và cảm giác bị trấn áp và bị bóc lột quá ngột ngạt đến mức kẻ nứt nhỏ nhất trong hệ thống bạo lực được thể chế hoá này hay cải cách nhỏ nhất hứa hẹn sự nới lỏng ngay lập tức sẽ gây ra cảnh tức nước vỡ bờ của muôn vàn bao uất hận dấu kín và bao nhu cầu bị đè nén và đe doạ bùng nổ không thể nào kiểm soát nổi. Sau quá nhiều kinh nghiệm, ta không lấy làm ngạc nhiên rằng lòng nhân của những kẻ cai trị, cho dù có thật đi chăng nữa, vẫn không thể nào làm dịu đi thân phận nô lệ về chính trị và kinh tế của toàn bộ dân số.
Nguồn: Tạp chí Survey, bộ 17, số 3 năm 1971, trang 37-52
7.12.10
LESZEK KOLAKOWSKI-CHỦ NGHĨA XÃ HỘI LÀ GÌ?
Trần Quốc Việt dịch
Lời người dịch: Leszek Kolakowsi (1927-2009) là một triết gia Ba Lan nổi tiếng thế giới, có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào phản kháng ở Đông Âu, đặc biệt tại Ba Lan. Ông bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Ba Lan năm 1966 và bị cấm dạy tại Đại học Warsaw năm 1968, sau khi ông phê phán chủ nghĩa Stalin qua các bài viết được lưu hành bí mật. Từ đó ông bắt đầu cuộc đời lưu vong, và lần luợt giảng dạy tại các đại học như Berkeley, Yale, Chicago, và cuối cùng Oxford. Trong năm thập niên, ông viết hơn 30 cuốn sách, chủ yếu về triết học, nổi bật nhất và có tầm ảnh hưởng lớn nhất là bộ sách 3 tập, Main Currents of Marxism: Its Rise, Growth and Dissolution (1976). Tác phẩm này là “giấy khai tử” về trí thức của tư tưởng Mác-xít viết ra 13 năm trước khi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu đi vào nghĩa trang lịch sử năm 1989. Các nhà lãnh đạo phong đoàn Công đoàn Đoàn kết tranh đấu bền bỉ dựa trên các tư tưởng chống Mác-xít của ông. Ông nhận được rất nhiều giải thưởng lớn, là người đầu tiện nhận Giải thưởng John W. Kluge, trị giá 1 triệu đô-la, được xem như là Giải Nobel cho các ngành nhân văn và xã hội. Ông là “người đánh thức hy vọng của con người” và là một Socrates của Ba Lan trong thế kỷ hai mươi.
Tác phẩm dưới đây được tác giả viết vào năm 1956 cho tờ tuần báo sinh viên. Toàn bộ bài bị kiểm duyệt. Sau đó báo bị đình bản. Sinh viên liền dán bài trên bản thông báo của trường đại học Warsaw, nhưng liền bị gỡ xuống ngay. Từ đấy bài được chép tay và lưu hành rộng rãi.
Tác giả nhận xét: " Dù ngắn, tác phẩm châm biếm này đủ dài để khích thích sự giận dữ của những nhà lãnh đạo đảng cộng sản - điều đáng tự hào."
Độc giả có thể đọc bài viết khác của tác giả nhan đề " Chủ nghĩa xã hội còn lại gì " trên trang mạng Talawas blog cũng cùng người dịch.
_______________
Chúng tôi định nói cho bạn biết chủ nghĩa xã hội là gì. Nhưng trước tiên chúng tôi phải nói cho bạn biết chủ nghĩa xã hội không phải là gì đã - và quan điểm của chúng tôi ngày xưa về vấn đề này đã rất khác với quan điểm hiện nay.
Vậy sau đây chủ nghĩa xã hội không phải là:
- xã hội nơi người không phạm tội gì ngồi ở nhà chờ công an đến;
- xã hội nơi người ta có tội vì là anh chị em, con, hay vợ của tội phạm;
- xã hội nơi nhiều người đau khổ vì họ nói ra điều họ nghĩ còn những người khác lại đau khổ vì họ không nói;
- xã hội nơi có nhiều người khá lên nhờ họ hoàn toàn chẳng suy nghĩ gì;
- xã hội nơi nhiều người đau khổ vì họ là người Do Thái còn những người khác hạnh phúc hơn vì họ không phải là người Do Thái;
- nhà nước nơi bộ đội là những người đầu tiên đặt chân lên lãnh thổ nước khác;
- nhà nước nơi người ta khá lên nhờ họ biết khen ngợi lãnh đạo;
- nhà nước nơi người ta có thể bị kết án mà không cần xét xử.
- xã hội nơi các nhà lãnh đạo tự phong lẫn nhau;
- xã hội nơi mười người sống trong một phòng;
- xã hội có những cơn dịch bệnh và dịch mù chữ;
- nhà nước không cho phép đi ra nước ngoài;
- nhà nước có nhiều gián điệp hơn y tá và nhà tù có nhiều chỗ trống hơn bênh viện;
- nhà nước nơi số lượng cán bộ tăng nhanh hơn số lượng công nhân viên;
- nhà nước nơi người dân buộc phải nói láo;
- nhà nước nơi người dân buộc phải ăn cắp;
- nhà nước nơi người dân buộc phải phạm tội;
- nhà nước sở hữu thuộc địa;
- nhà nước nơi nước láng giềng của họ nguyền rủa địa lý;
- nhà nước sản xuất ra máy bay phản lực siêu phàm và những đôi giày quá tệ;
- nhà nước nơi những kẻ hèn nhát lại khá hơn những người can đảm;
- nhà nước nơi luật sư biện hộ thường đồng ý với công tố;
- nhà nước độc đoán, nhà nước do nhóm nhỏ cầm quyền, nhà nước quan liêu;
- xã hội nơi đại đa số nhân dân hướng về Chúa để an ủi họ trong cảnh khổ;
- nhà nước trao các giải văn học cho những nhà văn quèn bất tài và là nhà nước biết rõ hơn các hoạ sĩ tranh nào là kiệt tác;
- quốc gia thống trị quốc gia khác;
- quốc gia bị quốc gia khác thống trị;
- nhà nước muốn tất cả các công dân của mình đều có cùng quan điểm về triết học, chính sách ngoại giao, kinh tế, văn học, và đạo đức;
- nhà nước quyết định các quyền của công dân nhưng các công dân không được quyết định các quyền của nhà nước;
- nhà nước nơi người ta chịu trách nhiệm về tổ tiên của mình;
- nhà nước nơi có người có thu nhập cao hơn bốn mươi lần người khác;
- là hệ thống chính quyền bị đa số người dân ghét;
- một quốc gia bị cô lập;
- nhóm các quốc gia kém phát triễn;
- nhà nước xử dụng các khẩu hiệu đề cao dân tộc;
-nhà nước nơi chính quyền tin rằng không có gì quan trọng bằng việc mình phải nắm được quyền hành;
- nhà nước ký kết hiệp ước với các tội phạm và thay đổi thế giới quan của nhà nước theo các hiệp ước này;
- nhà nước muốn bộ ngoại giao hình thành thế giới quan cho tất cả nhân loại ở một thời điểm nhất định;
- nhà nước không phân biệt giỏi lắm giữa nô lệ và giải phóng;
- nhà nước hoàn toàn cho phép ủng hộ kỳ thị chủng tộc,
- nhà nước hiện đang tồn tại;
- nhà nước có quyền tư hữu phuơng tiện sản xuât;
- nhà nước coi mình là nhà nước xã hội chủ nghĩa vì nhà nước đã xoá bỏ tư hữu phương tiện sản xuất;
- nhà nước không phân biệt giỏi lắm giữa cách mạng xã hội và sự xâm lược vũ trang;
- nhà nước không tin rằng nhân dân dưới chủ nghĩa xã hội nên hạnh phúc hơn nhân dân ở các nơi khác;
- xã hội rất buồn;
- hệ thống các giai cấp;
- nhà nước nơi chính quyền luôn luôn biết ý muốn của nhân dân trước khi hỏi ý kiến của nhân dân;
- nơi người dân có thể bị xô đẩy, bị nhục mạ, và bị bạc đãi mà nhà nước không bị trừng phạt;
- nhà nước nơi áp đặt quan điểm nhất định về lịch sử thế giới,
- nhà nước nơi các triết gia và nhà văn luôn luôn nói những điều giống như các vị tướng và bộ trưởng nói, nhưng luôn luôn nói sau khi các vị tướng và bộ trưởng đã nói trước;
- nhà nước nơi các bản đồ thành phố là bí mật quốc gia;
- nhà nước nơi kết quả các cuộc bầu cử quốc hội có thể luôn luôn được tiên đoán không bao giờ sai;
- nhà nước nơi lao động như nô lệ tồn tại;
- nhà nước nơi các mối quan hệ phong kiến tồn tại;
- nhà nước độc quyền cho người dân biết tất cả những gì họ cần biết về thế giới;
- nhà nước nghĩ tự do có nghĩa là phục tùng nhà nước;
- nhà nước không thấy sự khác biệt giữa những gì là sự thật và những gì vì quyền lợi của nhà nước nhân dân phải tin theo;
- nhà nước nơi người ta có thể tuỳ tiện chuyển toàn bộ quốc gia từ nơi này đến nơi khác;
- nhà nước nơi công nhân không có ảnh hưởng gì đối với chính quyền;
- nhà nước cho rằng chỉ có nhà nước mới có thể cứu được nhân loại;
- nhà nước cho rằng nhà nước luôn luôn đúng;
- nhà nước nơi lịch sử phục vụ chính trị;
- nhà nước nơi công dân không được phép đọc các kiệt tác văn học đương thời, hay xem các kiệt tác nghệ thuật đương thời, hay nghe kiệt tác âm nhạc đương thời;
- nhà nước cực kỳ tự mãn;
- nhà nước tuyên bố thế giới rất phức tạp, nhưng thật ra lại tin rằng thế giới rất đơn giản;
- nhà nước nơi ta phải trải qua rất nhiều đau đớn trước khi ta gặp được bác sĩ;
-nhà nước có kẻ ăn xin;
- nhà nước tin tưởng chắc chắn rằng không có ai đã từng có thể phát minh ra được điều gì tốt hơn;
- nhà nước tin rằng tất cả mọi người đều tôn sùng nhà nước, mặc dù ngược lại mới đúng;
- nhà nước cai trị theo nguyên tắc dân ghét cũng chẳng sao miễn là dân phải sợ;
- nhà nước quyết định ai có thể phê bình và phê bình như thế nào;
- nhà nước nơi ta mỗi ngày được yêu cầu nói ngược lại điều ta đã nói ngày hôm trước nhưng vẫn tin rằng ta luôn luôn nói cùng một điều;
- nhà nước hoàn toàn không thích khi công dân đọc báo cũ;
- nhà nước nơi kẻ dốt thành học giả;
- nhà nước nơi nội dung của tất cả các tờ báo đều giống y như nhau;
-nhà nước nơi chính quyền muốn kiểm soát tất cả các hình thức tổ chức xã hội;
- nhà nước nơi có nhiều người ngay thẳng và can đảm, nhưng nghiên cứu về chính trị của chính quyền sẽ không cho phép ta khám phá ra điều này;
- nhà nước hoàn toàn không thích khi các học giả phân tích chế độ, nhưng lại rất vui khi các kẻ nịnh hót phân tích chế độ;
- nhà nước luôn luôn biết rõ hơn các công dân hạnh phúc của mỗi công dân nằm ở đâu;
-nhà nước, dù không hy sinh bất kỳ điều gì cho những nguyên tắc cao hơn, lại tin rằng nhà nước là ánh sáng soi đường cho sự tiến bộ.
Thế là xong phần thứ nhất. Bây giờ, hãy chú ý, vì chúng tôi sẽ cho bạn biết chủ nghĩa xã hội là gì. Chủ nghĩa xã hội là như thế này:
Chủ nghĩa xã hội là hệ thống mà ....Nhưng có ích gì khi đi sâu vào tất cả các chi tiết này? Thôi nói thế này với nhau cho dễ hiểu: chủ nghĩa xã hội quả thực là quá tuyệt.
Nguồn: Tác phẩm "My Correct Views on Everything", nhà xuất bản St.Augustine's Press, ấn bản năm 2010, trang 62-65
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 danlambao
Lời người dịch: Leszek Kolakowsi (1927-2009) là một triết gia Ba Lan nổi tiếng thế giới, có ảnh hưởng rất lớn đến phong trào phản kháng ở Đông Âu, đặc biệt tại Ba Lan. Ông bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Ba Lan năm 1966 và bị cấm dạy tại Đại học Warsaw năm 1968, sau khi ông phê phán chủ nghĩa Stalin qua các bài viết được lưu hành bí mật. Từ đó ông bắt đầu cuộc đời lưu vong, và lần luợt giảng dạy tại các đại học như Berkeley, Yale, Chicago, và cuối cùng Oxford. Trong năm thập niên, ông viết hơn 30 cuốn sách, chủ yếu về triết học, nổi bật nhất và có tầm ảnh hưởng lớn nhất là bộ sách 3 tập, Main Currents of Marxism: Its Rise, Growth and Dissolution (1976). Tác phẩm này là “giấy khai tử” về trí thức của tư tưởng Mác-xít viết ra 13 năm trước khi chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu đi vào nghĩa trang lịch sử năm 1989. Các nhà lãnh đạo phong đoàn Công đoàn Đoàn kết tranh đấu bền bỉ dựa trên các tư tưởng chống Mác-xít của ông. Ông nhận được rất nhiều giải thưởng lớn, là người đầu tiện nhận Giải thưởng John W. Kluge, trị giá 1 triệu đô-la, được xem như là Giải Nobel cho các ngành nhân văn và xã hội. Ông là “người đánh thức hy vọng của con người” và là một Socrates của Ba Lan trong thế kỷ hai mươi.
Tác phẩm dưới đây được tác giả viết vào năm 1956 cho tờ tuần báo sinh viên. Toàn bộ bài bị kiểm duyệt. Sau đó báo bị đình bản. Sinh viên liền dán bài trên bản thông báo của trường đại học Warsaw, nhưng liền bị gỡ xuống ngay. Từ đấy bài được chép tay và lưu hành rộng rãi.
Tác giả nhận xét: " Dù ngắn, tác phẩm châm biếm này đủ dài để khích thích sự giận dữ của những nhà lãnh đạo đảng cộng sản - điều đáng tự hào."
Độc giả có thể đọc bài viết khác của tác giả nhan đề " Chủ nghĩa xã hội còn lại gì " trên trang mạng Talawas blog cũng cùng người dịch.
_______________
Chúng tôi định nói cho bạn biết chủ nghĩa xã hội là gì. Nhưng trước tiên chúng tôi phải nói cho bạn biết chủ nghĩa xã hội không phải là gì đã - và quan điểm của chúng tôi ngày xưa về vấn đề này đã rất khác với quan điểm hiện nay.
Vậy sau đây chủ nghĩa xã hội không phải là:
- xã hội nơi người không phạm tội gì ngồi ở nhà chờ công an đến;
- xã hội nơi người ta có tội vì là anh chị em, con, hay vợ của tội phạm;
- xã hội nơi nhiều người đau khổ vì họ nói ra điều họ nghĩ còn những người khác lại đau khổ vì họ không nói;
- xã hội nơi có nhiều người khá lên nhờ họ hoàn toàn chẳng suy nghĩ gì;
- xã hội nơi nhiều người đau khổ vì họ là người Do Thái còn những người khác hạnh phúc hơn vì họ không phải là người Do Thái;
- nhà nước nơi bộ đội là những người đầu tiên đặt chân lên lãnh thổ nước khác;
- nhà nước nơi người ta khá lên nhờ họ biết khen ngợi lãnh đạo;
- nhà nước nơi người ta có thể bị kết án mà không cần xét xử.
- xã hội nơi các nhà lãnh đạo tự phong lẫn nhau;
- xã hội nơi mười người sống trong một phòng;
- xã hội có những cơn dịch bệnh và dịch mù chữ;
- nhà nước không cho phép đi ra nước ngoài;
- nhà nước có nhiều gián điệp hơn y tá và nhà tù có nhiều chỗ trống hơn bênh viện;
- nhà nước nơi số lượng cán bộ tăng nhanh hơn số lượng công nhân viên;
- nhà nước nơi người dân buộc phải nói láo;
- nhà nước nơi người dân buộc phải ăn cắp;
- nhà nước nơi người dân buộc phải phạm tội;
- nhà nước sở hữu thuộc địa;
- nhà nước nơi nước láng giềng của họ nguyền rủa địa lý;
- nhà nước sản xuất ra máy bay phản lực siêu phàm và những đôi giày quá tệ;
- nhà nước nơi những kẻ hèn nhát lại khá hơn những người can đảm;
- nhà nước nơi luật sư biện hộ thường đồng ý với công tố;
- nhà nước độc đoán, nhà nước do nhóm nhỏ cầm quyền, nhà nước quan liêu;
- xã hội nơi đại đa số nhân dân hướng về Chúa để an ủi họ trong cảnh khổ;
- nhà nước trao các giải văn học cho những nhà văn quèn bất tài và là nhà nước biết rõ hơn các hoạ sĩ tranh nào là kiệt tác;
- quốc gia thống trị quốc gia khác;
- quốc gia bị quốc gia khác thống trị;
- nhà nước muốn tất cả các công dân của mình đều có cùng quan điểm về triết học, chính sách ngoại giao, kinh tế, văn học, và đạo đức;
- nhà nước quyết định các quyền của công dân nhưng các công dân không được quyết định các quyền của nhà nước;
- nhà nước nơi người ta chịu trách nhiệm về tổ tiên của mình;
- nhà nước nơi có người có thu nhập cao hơn bốn mươi lần người khác;
- là hệ thống chính quyền bị đa số người dân ghét;
- một quốc gia bị cô lập;
- nhóm các quốc gia kém phát triễn;
- nhà nước xử dụng các khẩu hiệu đề cao dân tộc;
-nhà nước nơi chính quyền tin rằng không có gì quan trọng bằng việc mình phải nắm được quyền hành;
- nhà nước ký kết hiệp ước với các tội phạm và thay đổi thế giới quan của nhà nước theo các hiệp ước này;
- nhà nước muốn bộ ngoại giao hình thành thế giới quan cho tất cả nhân loại ở một thời điểm nhất định;
- nhà nước không phân biệt giỏi lắm giữa nô lệ và giải phóng;
- nhà nước hoàn toàn cho phép ủng hộ kỳ thị chủng tộc,
- nhà nước hiện đang tồn tại;
- nhà nước có quyền tư hữu phuơng tiện sản xuât;
- nhà nước coi mình là nhà nước xã hội chủ nghĩa vì nhà nước đã xoá bỏ tư hữu phương tiện sản xuất;
- nhà nước không phân biệt giỏi lắm giữa cách mạng xã hội và sự xâm lược vũ trang;
- nhà nước không tin rằng nhân dân dưới chủ nghĩa xã hội nên hạnh phúc hơn nhân dân ở các nơi khác;
- xã hội rất buồn;
- hệ thống các giai cấp;
- nhà nước nơi chính quyền luôn luôn biết ý muốn của nhân dân trước khi hỏi ý kiến của nhân dân;
- nơi người dân có thể bị xô đẩy, bị nhục mạ, và bị bạc đãi mà nhà nước không bị trừng phạt;
- nhà nước nơi áp đặt quan điểm nhất định về lịch sử thế giới,
- nhà nước nơi các triết gia và nhà văn luôn luôn nói những điều giống như các vị tướng và bộ trưởng nói, nhưng luôn luôn nói sau khi các vị tướng và bộ trưởng đã nói trước;
- nhà nước nơi các bản đồ thành phố là bí mật quốc gia;
- nhà nước nơi kết quả các cuộc bầu cử quốc hội có thể luôn luôn được tiên đoán không bao giờ sai;
- nhà nước nơi lao động như nô lệ tồn tại;
- nhà nước nơi các mối quan hệ phong kiến tồn tại;
- nhà nước độc quyền cho người dân biết tất cả những gì họ cần biết về thế giới;
- nhà nước nghĩ tự do có nghĩa là phục tùng nhà nước;
- nhà nước không thấy sự khác biệt giữa những gì là sự thật và những gì vì quyền lợi của nhà nước nhân dân phải tin theo;
- nhà nước nơi người ta có thể tuỳ tiện chuyển toàn bộ quốc gia từ nơi này đến nơi khác;
- nhà nước nơi công nhân không có ảnh hưởng gì đối với chính quyền;
- nhà nước cho rằng chỉ có nhà nước mới có thể cứu được nhân loại;
- nhà nước cho rằng nhà nước luôn luôn đúng;
- nhà nước nơi lịch sử phục vụ chính trị;
- nhà nước nơi công dân không được phép đọc các kiệt tác văn học đương thời, hay xem các kiệt tác nghệ thuật đương thời, hay nghe kiệt tác âm nhạc đương thời;
- nhà nước cực kỳ tự mãn;
- nhà nước tuyên bố thế giới rất phức tạp, nhưng thật ra lại tin rằng thế giới rất đơn giản;
- nhà nước nơi ta phải trải qua rất nhiều đau đớn trước khi ta gặp được bác sĩ;
-nhà nước có kẻ ăn xin;
- nhà nước tin tưởng chắc chắn rằng không có ai đã từng có thể phát minh ra được điều gì tốt hơn;
- nhà nước tin rằng tất cả mọi người đều tôn sùng nhà nước, mặc dù ngược lại mới đúng;
- nhà nước cai trị theo nguyên tắc dân ghét cũng chẳng sao miễn là dân phải sợ;
- nhà nước quyết định ai có thể phê bình và phê bình như thế nào;
- nhà nước nơi ta mỗi ngày được yêu cầu nói ngược lại điều ta đã nói ngày hôm trước nhưng vẫn tin rằng ta luôn luôn nói cùng một điều;
- nhà nước hoàn toàn không thích khi công dân đọc báo cũ;
- nhà nước nơi kẻ dốt thành học giả;
- nhà nước nơi nội dung của tất cả các tờ báo đều giống y như nhau;
-nhà nước nơi chính quyền muốn kiểm soát tất cả các hình thức tổ chức xã hội;
- nhà nước nơi có nhiều người ngay thẳng và can đảm, nhưng nghiên cứu về chính trị của chính quyền sẽ không cho phép ta khám phá ra điều này;
- nhà nước hoàn toàn không thích khi các học giả phân tích chế độ, nhưng lại rất vui khi các kẻ nịnh hót phân tích chế độ;
- nhà nước luôn luôn biết rõ hơn các công dân hạnh phúc của mỗi công dân nằm ở đâu;
-nhà nước, dù không hy sinh bất kỳ điều gì cho những nguyên tắc cao hơn, lại tin rằng nhà nước là ánh sáng soi đường cho sự tiến bộ.
Thế là xong phần thứ nhất. Bây giờ, hãy chú ý, vì chúng tôi sẽ cho bạn biết chủ nghĩa xã hội là gì. Chủ nghĩa xã hội là như thế này:
Chủ nghĩa xã hội là hệ thống mà ....Nhưng có ích gì khi đi sâu vào tất cả các chi tiết này? Thôi nói thế này với nhau cho dễ hiểu: chủ nghĩa xã hội quả thực là quá tuyệt.
Nguồn: Tác phẩm "My Correct Views on Everything", nhà xuất bản St.Augustine's Press, ấn bản năm 2010, trang 62-65
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 danlambao
4.12.10
GEORGE WEIGEL -NGƯỜI THẦY CỦA CÔNG ĐOÀN ĐOÀN KẾT
Trần Quốc Việt dịch
Cách đây ba mươi năm, vào ngày 31 tháng Tám năm 1980, một người thợ điện tên Lech Walesa ký Hiệp ước Gdansk, chấm dứt cuộc đình công kéo dài hai tuần ở nhà máy đóng tàu Lenin tại thành phố Hanseatic. Walesa ký bằng cây bút lưu niệm rất lớn có in hình chân dung Đức Giáo hoàng John Paul II. Chọn bút không phải là ngẫu nhiên như những người cộng sản chắc hẳn đã nói. Cũng không phải ngẫu nhiên là cuộc cách mạng đặc trưng đã diễn ra theo sau Hiệp ước Gdansk được hình thành sau hai tuần đầy kịch tính trên bờ biển Baltic của Ba Lan.
Hiệp ước là gạch nối quan trọng giữa chuyến hành hương Ba Lan của Đức Giáo hoàng John Paul vào tháng Sáu năm 1989 và thắng lợi của "Công đoàn Đoàn kết Độc lập Tự quản" vào tháng Chín năm 1980. Mười bốn tháng trước cuộc đình công, Đức Giáo hoàng John Paul đã châm ngòi cho một cuộc cách mạng lương tâm khích lệ biết bao nhiêu người hãy "sống trong sự thật," hãy sống "như thể" họ tự do- như khẳng định qua những lời tâm niệm đương thời. " Sống trong sự thật " đã cho Hiệp ước Gdansk một tố chất đặc biệt, từ đấy dẫn đến hiện tượng chính trị và xã hội độc đáo tức Công đoàn Đoàn kết.
Bất ổn lao động từng diễn ra ở Ba Lan vào những năm 1953, 1956, 1968, và 1970. Trong mỗi trường hợp, chế độ cộng sản Ba Lan đều trấn an công nhân (những nguời mà những người cộng sản này đã mặc nhiên cai trị nhân danh họ) bằng một loạt biện pháp tổng hợp từ chiến thuật chia để trị, mua chuộc kinh tế (thường liên quan đến giá cả thực phẩm), đến trấn áp. Năm 1980 lại khác, và sự khác biệt làm năm 1980 khác với những năm trước chính là sự khác biệt Đức Giáo hoàng - một sự khác biệt về đạo lý.
Tôi cố gắng thể hiện sự khác biệt ấy trong tác phẩm " Kết thúc và Khởi đầu: Đức Giáo hoàng Paul John II- Chiến thắng của Tự do, Những Năm Cuối Cùng, Di sản " sẽ được nhà xuất bản Doubleday phát hành vào ngày 14 tháng Chín:
"Sự khác biệt đạo lý này tự thể hiện rõ hầu như ngay tức thì khi cuộc đình công ở nhà máy Gdansk nổ ra vào ngày 14 tháng Tám năm 1980. Đây là một cuộc đình công nghề nghiệp, qua đó công nhân chiếm lĩnh toàn bộ tổ hợp nhà máy, như thế tạo ra một ốc đảo không gian tự do trong hệ thống toàn trị. Công nhân duy trì chế độ kỷ luật nghiêm ngặt nhờ cấm tuyệt đối rượu trong nhà máy. Người ta dễ dàng cảm nhận bầu không khí tôn giáo trang nghiêm như được biểu lộ công khai qua các buổi Thánh lễ và xưng tội ngoài trời. Xét theo quan điểm của những gì diễn ra sau đó, điều quan trọng nhất có lẽ là, do nhờ được chính Đức Giáo hoàng khai tâm ý nghĩa cao quý hơn về nhân phẩm làm người, các công nhân đã từ chối chấp nhận nhiều nhượng bộ kinh tế chế độ vội vã đưa ra.
Thế là vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng Tám, Uỷ ban Đình công Liên Nhà máy (MKS) được thành lập để công bố một loạt những đòi hỏi bao quát hơn, bao gồm việc thành lập các tổ chức công đoàn độc lập tự quản... Danh sách "21 Điểm " nổi tiếng được chủ tịch đoàn MKS đồng ý... đã nhấn mạnh đến sự thay đổi kinh tế nhưng vẫn bao gồm đầy đủ các đòi hỏi nhân quyền cơ bản, đề cập cụ thể đến nhiều quyền trong đó có quyền tự do ngôn luận, quền tự do báo chí, và chấm dứt kỳ thị chống lại những tín hữu của "tất cả các tôn giáo" trong việc tiếp cận truyền thông. Như thế các mục tiêu của phong trào đối kháng được mở rộng sâu sắc hơn; như lời của một nhà thơ-công nhân diễn tả vài tháng sau đó, " Đã qua rồi những thời / Khi họ bịt miệng chúng ta bằng xúc xích."
Con đường đấy sóng gió Công đoàn Đoàn kết trải qua chín năm sau đó đã mở đường cho cuộc Cách Mạng năm 1989, sự sụp đổ (đa phần bất bạo động) của chủ nghĩa cộng sản Châu Âu, và cái chết của Liên Xô năm 1991. Có biết bao vô vàn tranh cãi khi Walesa và lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết phải vật lộn với bao sóng gió tất yếu của công đoàn mới mà cũng là một phong trào xã hội quần chúng và là lực lượng đối lập chính trị không chính thức - trong một xã hội nơi đảng cộng sản và bộ máy cai trị nhà nước do Đảng kiểm soát đã ra sức chiếm lĩnh từng tấc không gian xã hội còn sót lại.
Chính nhờ Nhà thờ Công giáo trong suốt 35 năm duy trì bền bỉ sự độc lập của mình trong môi trường chính trị và xã hội nghẹt thở này đã góp phần tạo ra Công đoàn Đoàn kết; sự độc lập của Nhà thờ cũng giúp tạo ra một không gian được bảo vệ nơi phong trào có thể tiếp tục tồn tại sau khi Công đoàn Đoàn kết bị giải tán dưới chế độ thiết quân luật bị áp đặt trên Ba Lan vào ngày 13 tháng Chạp năm 1981.
Suốt trong thời kỳ hào hùng của mình, Công đoàn Đoàn kết là sự hài hoà độc đáo giữa niềm tin trí thức và niềm tin đạo lý, nhận thức đúng đắn về kinh tế, sáng suốt về chính trị, và can đảm của cá nhân, tất cả điều này được hình thành nhờ học thuyết xã hội của Nhà thờ Công giáo và nhờ chứng nhân cá nhân của đức John Paul II. Gương sáng của Công đoàn Đoàn kết nên khích lệ những người tự do, và những ai khao khát tự do, ở khắp mọi nơi.
Nguồn: Tạp chí First Things số ngày 1 tháng 9 năm 2010
www.firstthings.com/onthesquare/2010/09/the-solidarity-difference
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 danlambao
Cách đây ba mươi năm, vào ngày 31 tháng Tám năm 1980, một người thợ điện tên Lech Walesa ký Hiệp ước Gdansk, chấm dứt cuộc đình công kéo dài hai tuần ở nhà máy đóng tàu Lenin tại thành phố Hanseatic. Walesa ký bằng cây bút lưu niệm rất lớn có in hình chân dung Đức Giáo hoàng John Paul II. Chọn bút không phải là ngẫu nhiên như những người cộng sản chắc hẳn đã nói. Cũng không phải ngẫu nhiên là cuộc cách mạng đặc trưng đã diễn ra theo sau Hiệp ước Gdansk được hình thành sau hai tuần đầy kịch tính trên bờ biển Baltic của Ba Lan.
Hiệp ước là gạch nối quan trọng giữa chuyến hành hương Ba Lan của Đức Giáo hoàng John Paul vào tháng Sáu năm 1989 và thắng lợi của "Công đoàn Đoàn kết Độc lập Tự quản" vào tháng Chín năm 1980. Mười bốn tháng trước cuộc đình công, Đức Giáo hoàng John Paul đã châm ngòi cho một cuộc cách mạng lương tâm khích lệ biết bao nhiêu người hãy "sống trong sự thật," hãy sống "như thể" họ tự do- như khẳng định qua những lời tâm niệm đương thời. " Sống trong sự thật " đã cho Hiệp ước Gdansk một tố chất đặc biệt, từ đấy dẫn đến hiện tượng chính trị và xã hội độc đáo tức Công đoàn Đoàn kết.
Bất ổn lao động từng diễn ra ở Ba Lan vào những năm 1953, 1956, 1968, và 1970. Trong mỗi trường hợp, chế độ cộng sản Ba Lan đều trấn an công nhân (những nguời mà những người cộng sản này đã mặc nhiên cai trị nhân danh họ) bằng một loạt biện pháp tổng hợp từ chiến thuật chia để trị, mua chuộc kinh tế (thường liên quan đến giá cả thực phẩm), đến trấn áp. Năm 1980 lại khác, và sự khác biệt làm năm 1980 khác với những năm trước chính là sự khác biệt Đức Giáo hoàng - một sự khác biệt về đạo lý.
Tôi cố gắng thể hiện sự khác biệt ấy trong tác phẩm " Kết thúc và Khởi đầu: Đức Giáo hoàng Paul John II- Chiến thắng của Tự do, Những Năm Cuối Cùng, Di sản " sẽ được nhà xuất bản Doubleday phát hành vào ngày 14 tháng Chín:
"Sự khác biệt đạo lý này tự thể hiện rõ hầu như ngay tức thì khi cuộc đình công ở nhà máy Gdansk nổ ra vào ngày 14 tháng Tám năm 1980. Đây là một cuộc đình công nghề nghiệp, qua đó công nhân chiếm lĩnh toàn bộ tổ hợp nhà máy, như thế tạo ra một ốc đảo không gian tự do trong hệ thống toàn trị. Công nhân duy trì chế độ kỷ luật nghiêm ngặt nhờ cấm tuyệt đối rượu trong nhà máy. Người ta dễ dàng cảm nhận bầu không khí tôn giáo trang nghiêm như được biểu lộ công khai qua các buổi Thánh lễ và xưng tội ngoài trời. Xét theo quan điểm của những gì diễn ra sau đó, điều quan trọng nhất có lẽ là, do nhờ được chính Đức Giáo hoàng khai tâm ý nghĩa cao quý hơn về nhân phẩm làm người, các công nhân đã từ chối chấp nhận nhiều nhượng bộ kinh tế chế độ vội vã đưa ra.
Thế là vào đêm 16 rạng ngày 17 tháng Tám, Uỷ ban Đình công Liên Nhà máy (MKS) được thành lập để công bố một loạt những đòi hỏi bao quát hơn, bao gồm việc thành lập các tổ chức công đoàn độc lập tự quản... Danh sách "21 Điểm " nổi tiếng được chủ tịch đoàn MKS đồng ý... đã nhấn mạnh đến sự thay đổi kinh tế nhưng vẫn bao gồm đầy đủ các đòi hỏi nhân quyền cơ bản, đề cập cụ thể đến nhiều quyền trong đó có quyền tự do ngôn luận, quền tự do báo chí, và chấm dứt kỳ thị chống lại những tín hữu của "tất cả các tôn giáo" trong việc tiếp cận truyền thông. Như thế các mục tiêu của phong trào đối kháng được mở rộng sâu sắc hơn; như lời của một nhà thơ-công nhân diễn tả vài tháng sau đó, " Đã qua rồi những thời / Khi họ bịt miệng chúng ta bằng xúc xích."
Con đường đấy sóng gió Công đoàn Đoàn kết trải qua chín năm sau đó đã mở đường cho cuộc Cách Mạng năm 1989, sự sụp đổ (đa phần bất bạo động) của chủ nghĩa cộng sản Châu Âu, và cái chết của Liên Xô năm 1991. Có biết bao vô vàn tranh cãi khi Walesa và lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết phải vật lộn với bao sóng gió tất yếu của công đoàn mới mà cũng là một phong trào xã hội quần chúng và là lực lượng đối lập chính trị không chính thức - trong một xã hội nơi đảng cộng sản và bộ máy cai trị nhà nước do Đảng kiểm soát đã ra sức chiếm lĩnh từng tấc không gian xã hội còn sót lại.
Chính nhờ Nhà thờ Công giáo trong suốt 35 năm duy trì bền bỉ sự độc lập của mình trong môi trường chính trị và xã hội nghẹt thở này đã góp phần tạo ra Công đoàn Đoàn kết; sự độc lập của Nhà thờ cũng giúp tạo ra một không gian được bảo vệ nơi phong trào có thể tiếp tục tồn tại sau khi Công đoàn Đoàn kết bị giải tán dưới chế độ thiết quân luật bị áp đặt trên Ba Lan vào ngày 13 tháng Chạp năm 1981.
Suốt trong thời kỳ hào hùng của mình, Công đoàn Đoàn kết là sự hài hoà độc đáo giữa niềm tin trí thức và niềm tin đạo lý, nhận thức đúng đắn về kinh tế, sáng suốt về chính trị, và can đảm của cá nhân, tất cả điều này được hình thành nhờ học thuyết xã hội của Nhà thờ Công giáo và nhờ chứng nhân cá nhân của đức John Paul II. Gương sáng của Công đoàn Đoàn kết nên khích lệ những người tự do, và những ai khao khát tự do, ở khắp mọi nơi.
Nguồn: Tạp chí First Things số ngày 1 tháng 9 năm 2010
www.firstthings.com/onthesquare/2010/09/the-solidarity-difference
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 danlambao
27.11.10
NEAL ASCHERSON - CÔNG NHÂN ĐOÀN KẾT: CUỘC ĐÌNH CÔNG LÀM RUNG CHUYỂN ĐIỆN KREMLIN
Trần Quốc Việt dịch
Cách đây ba mươi năm, những người dân bình thường thách thức một chế độ độc tài vũ trang, và đã thắng.
Vào ngày 31 tháng Tám năm 1980, những công nhân đình công ở nhà máy đóng tàu Lenin tại Gdansk đã buộc nhà cầm quyền cộng sản ở Ba Lan ký kết một hiệp ước. Bên cạnh những điều khoản khác ít quan trọng hơn, hiệp ước hứa hẹn họ công đoàn tự do và độc lập, trả tự do cho các tù chính trị, báo chí đa nguyên và không bị kiểm duyệt và quyền đình công.
Chỉ trong vòng vài ngày, những uỷ ban đình công khác trên khắp Ba Lan cũng giành được những điều kiện gần như tương tự từ các cấp Đảng lãnh đạo của họ. Chẳng bao lâu tất cả các hiệp ước địa phương tập hợp lại thành một phong trào duy nhất hoạt động trên cả nước, và đến cuối năm đã tuyển mộ được 9 triệu thành viên. Nhà lãnh đạo của phong trào này là một người thợ điện nói nhanh, ngoan đạo, và hơi tinh quái tên Lech Walesa. Tên của phong trào là "Công đoàn Đoàn kết Độc lập Tự quản".
Tất cả những ai ở lại nhà máy đóng tàu ấy trong suốt cuộc đình công khi bước ra đều đã thay đổi: họ chín chắn hơn và có lẽ có nhiều niềm tin hơn vào con người. Đây là cuộc đình công nghề nghiệp buộc những công nhân đình công vì sự nghiệp chung phải rời xa mái ấm gia đình. Cổng của nhà máy, hầu như bị che khuất đằng sau nhiều hoa tặng từ những người ủng hộ và sau những bức ảnh của đức Giáo hoàng, đã bị khoá lại, và các công nhân cấm mình không bước ra ngoài cho đến khi nào họ chiến thắng.
Bên trong, hàng ngàn người trong bộ áo quần lao động màu xám nằm dài trên cỏ lắng nghe tiếng loa phát đi những cuộc thương lượng kéo dài lê thê trong phòng Y tế và An toàn. Bên ngoài cổng, phụ nữ và trẻ em đợi chờ trong suốt những ngày tháng Tám dài và nóng bức. Đôi lúc họ ném bánh mì, salami, và táo qua hàng rào cho chồng, cha và con trai của họ. Trong sân có sẵn giấy và mực in để cho ra những bản thông báo lem luốc, nhưng không có gì nhiều để ăn. Rượu Vodka bị cấm. Tại một trong những nước nghiện thuốc lá nặng nhất ở Châu Âu, họ cấm cả hút thuốc trong phòng.
Rủi ro lại rất cao. Công nhân ở bên trong và gia đình ở bên ngoài đều nghĩ đến công an chống bạo động ZOMO đang ngứa ngáy muốn dộng dùi cui lên người họ. Còn các nhà báo ngoại quốc ở trong sân nhà máy lại nghĩ nhiều hơn đến những sư đoàn thiết giáp Xô Viết đã áp sát đến biên giới Ba Lan. Nếu họ xâm lăng, chúng tôi cho rằng nhân dân Ba Lan sẽ chống trả rồi dẫn đến điều mà chế độ gọi một cách tế nhị "bi kịch quốc gia". Nhưng đó là một khả năng các công nhân đình công từ chối thảo luận. Lại canh cánh thêm một mối lo sợ họ thấy không cần thiết.
Các cuộc đình công lan rộng và chính quyền chia rẽ trước các lý lẽ đáng sợ cuối cùng đành nhượng bộ. Vào ngày 31 tháng Tám Lech Walesa, tận hưởng từng khoảnh khắc thời điểm mang lại, cầm cây bút rất lớn, quà lưu niệm từ đức Giáo hoàng nhân cuộc viếng thăm của Người năm ngoái, và ký vào Hiệp ước Gdansk. Phó Thủ tướng Mieczyslaw Jagielski, rõ ràng căm ghét cũng không kém từng khoảnh khắc, hạ bút ký theo.
Câu chuyện chưa chấm dứt ở đấy. Trong những tháng kế tiếp, chế độ cố gắng ngăn chặn, trì hoãn hay nói chung gian lận tất cả các điểm chính trong các hiệp ước, thường xuyên đẩy Công đoàn Đoàn kết vào thế đối đầu. Nhiều lúc tưởng đâu Ba Lan suýt rơi vào cảnh nội chiến. Nền kinh tế kiệt quệ giờ sụp đổ; người dân ngủ vạ vật qua đêm trên vỉa hè để giữ chỗ xếp hàng mua thực phẩm ngày hôm sau. Bản thân Công đoàn Đoàn Kết trở nên chia rẽ, nhiều người trách Walesa không dùng đến vũ khí tối hậu là cuộc tổng đình công toàn lực. Cuối cùng, vào tháng Chạp năm 1981, tướng Jaruzelski tiến hành đảo chính quân sự, giải tán Công đoàn Đoàn kết, bắt giam hàng ngàn thành viên lãnh đạo của công đoàn và ban bố lệnh thiết quân luật. Nhưng câu chuyện cũng chưa hẳn kết thúc ở đấy. Từ đấy Công đoàn Đoàn kết trở thành phong trào kháng chiến bí mật.
Chế độ cộng sản, bấy giờ mất uy tín và bị mọi người khinh bỉ, nằm đè lên Ba Lan như con khủng long khổng lồ đang hấp hối. Trong năm 1988, làn sóng các cuộc đình công mới buộc chế độ triệu tập Hội nghị Bàn Tròn nhằm thảo luận cải cách cơ bản với Công đoàn Đoàn kết và các nhóm đối lập khác. Một thoả hiệp được sắp xếp cho một cuộc bầu cử "tự do" vào tháng Sáu năm 1989, và bản đồ các khu vực bầu cử được chế độ sửa lại để bảo đảm rằng những người cộng sản và đồng minh của họ chiếm đa số trong nghị viện.
Nhưng các cử tri tìm thấy một kẻ hở - tức yêu cầu rằng tất cả ứng cử viên phải đạt được sự ủng hộ của 50 phần trăm số phiếu bầu - thế là danh sách chế độ đưa ra bị loại bỏ. Bốn tháng sau, chính phủ đầu tiên trong khối "Châu Âu Xô Viết" dưới sự lãnh đạo của những người không cộng sản lên nắm quyền. Năm 1990, Lech Walesa được bầu làm tổng thống của nước Cộng hoà Ba Lan tự do.
Năm đầu tiên ra đời ấy của Công đoàn Đoàn kết, khởi đầu vào mùa hè và kết thúc vào một đêm tháng Chạp rất lạnh, là những ngày vui lớn tạo nên huyền thoại sống mãi. Tuy nhiên ngày nay người ta đã quên đi nhiều nét độc đáo vào thuở ban đầu của phong trào. Một nét nổi bật là vai trò phụ nữ trong những tuần lễ đầu tiên ấy. Cuộc đình công Gdansk bắt đầu do việc sa thải Ana Walentynowicz, nữ công nhân lái xe cần cẩu đeo kính, vóc dáng nhỏ bé, về sau trở thành một trong những nhà lãnh đạo cứng cỏi nhất của phong trào. Hiệp ước Gdansk phát triễn thành tuyên ngôn xã hội nhờ công lao của nữ y tá tên Alina Pienkowska, người đã yêu cầu những người đứng ra thương lượng phải bao gồm danh sách dài những cải cách về dịch vụ y tế.
Và cuộc đình công ấy sẽ chẳng khác gì một cuộc đình công bình thường nếu không có Henryka Krzywonos, nữ công nhân lái tàu điện. Một vài ngày sau khi cuộc bãi công bắt đầu, Lech Walesa tuyên bố rằng cuộc đình công kết thúc: ông sẵn sàng đồng ý với ban giám đốc nhà máy về điều kiện tăng lương, thu nhận lại những công nhân bị đuổi việc và lời hứa không được trù dập công nhân. Henryka, đại diện các nhân viên giao thông thành phố, đứng lên la to cắt ngang lời ông. Chị nói năm mươi ngàn công nhân ở các xí nghiệp khác cũng đang đình công cho nên sẽ là sự phản bội trắng trợn nếu nhà máy đóng tàu Lenin bỏ rơi họ để mặc cả lợi riêng cho mình. "Nếu anh bỏ rơi chúng tôi, chúng tôi chắc chắn sẽ thua; xe buýt làm sao đánh lại xe tăng được."
Mọi người hoan hô đồng ý. Walesa đổi ý liền chạy quanh nhà máy thông báo huỷ bỏ lệnh do chính ông đã đưa ra và phát đi lệnh mới: cuộc đình công vẫn tiếp tục và sẽ đòi thêm những yêu cầu của các nhà máy khác dọc theo bờ biển Baltic. Nhờ Henryka, một cuộc tranh chấp công nghiệp mở rộng thành một cuộc cách mạng.
Cũng lãng quên theo dòng thời gian sự thực đơn giản rằng Công đoàn Đoàn kết chính là công đoàn. Công đoàn trông cậy vào đội "cố vấn" trí thức đối lập đáng nể. Công đoàn mang đậm chất Công giáo, và các công nhân đình công quỳ xuống cử hành thánh lễ hằng ngày ngoài sân nhà máy. Phong trào được nuôi dưỡng nhờ cội rễ sâu thẳm của chủ nghĩa dân tộc truyền thống cũ, tức niềm ao ước muốn khôi phục một nước Ba Lan thật sự độc lập. Nhưng Công đoàn Đoàn Kết, hình thức của cuộc nổi dậy này, thực chất là cuộc đồng khởi của giai cấp công nhân.
Đây là sự lớn mạnh bất ngờ phi thường mang tính công đoàn dựa trên giai cấp vô sản công nghiệp, nhưng một giai cấp vô sản mà đối với họ 'chủ nghĩa xã hội" đã trở thành một từ bẩn thỉu. Giai cấp vô sản ấy chỉ có khinh bỉ nhà cầm quyền cộng sản, nhưng thoạt đầu hy vọng cùng tồn tại với họ thay vì lật đổ họ. Chiến thắng "chính trị" trong các hiệp ước Công đoàn Đoàn kết đạt được - nới lỏng kiểm duyệt, thả tự do cho tù chính trị - hầu như là những thành quả phụ đối với các uỷ ban đình công. Chính tự do ngôn luận và tự do báo chí mới là cách tốt nhất để bảo đảm rằng những yếu tố cơ bản nhất của hiệp ước - sự độc lập của công đoàn mới, lương hướng tốt hơn, không được đuổi việc vì lý do chính trị, cung cấp vật dụng cần thiết cho các phân xưởng - sẽ không bị phá hoại.
Ba Lan ngày nay khó mà nhớ lại rằng Công đoàn Đoàn Kết đã ủng hộ chủ nghĩa thường được gọi là "chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ". Hay nói cách khác, đây là một hình thức dân chủ xã hội quá khích theo đó công nhân tự kiểm soát các xí nghiệp của mình, tự chọn ra ban giám đốc và tự bỏ phiếu về các kế hoạch sản xuất. Đấy là ý nghĩa của từ "tự quản" trong tên chính thức của Công đoàn Đoàn kết. Điều này thường đi đôi với việc hưởng lương như nhau nhằm bảo đảm sự bình đẳng tại nơi làm việc.
Đây là chương trình "tự quản của công nhân" do các uỷ ban Công đoàn Đoàn kết lập ra trên khắp Ba Lan. Nhưng họ có thể thực hiện được chỉ một số phần của chương trình này. Các công nhân viên đã sung sướng khi họ đuổi các giám đốc đảng viên bất tài, và khi tham gia trong các buổi họp tuy kéo dài nhưng sôi nổi để bàn về các điều kiện làm việc. Nhưng thay đổi nền kinh tế Ba Lan thành nền dân chủ phi tập trung do "công nhân làm chủ" là chuyện hão huyền. Nền kinh tế ấy chẳng còn gì nữa để mà thay đổi. Công nghiệp ngừng hoạt động vì thiếu đồ phụ tùng thay thế còn nợ nước ngoài ngập đầu đã bóp chết nhập khẩu, trong khi ấy những người dân Ba Lan bình thường cứ đứng xếp hàng gần như suốt ngày bên ngoài các cửa hàng trống rỗng.
Ngày nay đối với những người Ba Lan yêu nước, điểm son sáng chói của Công đoàn Đoàn kết là công đoàn đã gây ra một vết thương chí mạng cho cả đế quốc Xô Viết. Các cuộc cách mạng diễn ra trong năm 1989, làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản và thống nhất Châu Âu, đều "bắt đầu ở Gdansk". Có nhiều người không đồng ý. Cố sử gia Tony Judt, trong tác phẩm lớn Hậu Chiến của mình, đã viết rằng "Chủ nghĩa cộng sản là về quyền lực, và quyền lực không nằm ở Warsaw mà ở Mạc Tư khoa. Những biến động ở Ba Lan là khúc dạo đầu xôn xao cho câu chuyện về sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, nhưng những biến động ấy vẫn là màn phụ. Còn câu chuyện thật sự lại diễn ra ở nơi khác." (Chẳng hạn những hành động của Mikhail Gorbachev.)
Nhưng đó chỉ là sự thật nửa vời. Chủ nghĩa cộng sản Ba Lan bắt đầu chết vào tháng Tám năm 1980; nên trước sau gì để cứu đất nước khỏi rơi vào cảnh hỗn loạn, nhân dân Ba Lan cũng sẽ lăn cái xác qua một bên và thành lập đại loại một nước dân chủ. Mạc Tư Khoa và các nước láng giềng cộng sản đến lúc đấy sẽ phải đối diện sự chọn lựa giữa nguy cơ gây ra cuộc chiến tranh ở Châu Âu vì vấn đề Ba Lan hay để xảy ra sự sụp đổ của toàn bộ siêu cường Xô Viết. Cái hay của Gorbachev là ông bảo đảm rằng sự sụp đổ ấy sẽ diễn ra không có đổ máu.
Nhưng cho dù Công đoàn Đoàn kết thổi tung ra cánh cổng vào tương lai, về nhiều phương diện công đoàn này đã thuộc về quá khứ. Thay vì sự khởi đầu, công đoàn là sự cáo chung của bao nhiều điều.
Trước tiên, công đoàn này là sự nổi dậy hoành tráng cuối cùng của những người sản xuất - của những con người bằng sức lao động của mình đã làm ra của cải, và cũng là những người đòi quyền kiểm soát tại nơi làm việc của mình về việc của cải nên được sản xuất và phân phối như thế nào. Trước đấy 10 năm nhà hoạt động công đoàn quá cố Jimmy Reid và các công nhân ở Tổ hợp Đóng tàu Upper Clyde đã chiếm nhà máy để làm chủ sản xuất. Nhưng ngày nay hầu như chẳng ai còn nhớ đến cảnh "công nhân làm chủ" ấy nữa. Người lao động sản xuất ra của cải hiện nay bị tảng lờ hay ở xa tít tận Trung Quốc, trong khi đó người tiêu thụ lại được quý như vua.
Và những sự kiện ở Gdansk cũng thuộc về một thời đã qua khác: thời của những nhà máy công nghiệp lớn xử dụng đến hàng ngàn công nhân. Các chế độ cộng sản khuyến khích những nhà máy to tát vì cho rằng những nhà máy như thế sẽ tạo ra giai cấp công nhân có kỷ luật để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực ra, những nơi này lại trở thành những pháo đài nổi loạn, nhờ chính tầm vóc của mình mà có thể tuôn trào ra đường phố những đoàn quân công nhân uất hận buộc chính quyền phải chịu khuất phục. Nhưng kỹ thuật mới cùng sự chuyển giao sản xuất sang Châu Á có nghĩa rằng ngày nay ở Châu Âu những nhà máy to lớn như thế, vốn một thời từng là thành trì của quyền lực công đoàn, chẳng còn lại bao nhiêu. Giai cấp công nhân có tổ chức, dòng thác người đội mũ vải hay mũ nồi tràn vào hay tràn ra cổng nhà máy theo tiếng còi thổi, hầu như đã chìm vào lịch sử.
Nay còn lại gì từ tinh thần tháng Tám năm ấy, tại một Ba Lan quyết tâm theo đuổi thị trường tự do tân cấp tiến và chủ nghĩa cá nhân, nơi có khoảng cách rất lớn giữa giàu và nghèo?
Công đoàn Đoàn kết sau năm 1980 đã thay hình đổi dạng nhiều lần. Từ một công đoàn nó đã trở thành phong trào kháng chiến hết lòng nhiều với độc lập dân tộc hơn với lợi quyền của công nhân. Rồi, sau năm 1989, cùng với vài vai trò khác công đoàn này trở thành phong trào chính trị cánh hữu thất bại. Ngày này nó lại trở thành một công đoàn tiếng tăm rất lớn nhưng ảnh hưởng lại hạn chế.
Tuy không nói ra, bao niềm hy vọng của Ba Lan cũng thay đổi theo. Trong những năm ảm đạm dưới chế độ thiết quân luật, lớp trẻ không còn quan tâm đến viễn cảnh công nhân làm chủ. Họ nghĩ họ nhìn thấy tại tây Âu một hệ thống thành công còn tốt hơn nhiều: chủ nghĩa tư bản dưới một thể chế dân chủ tự do.
"Thế hệ Công đoàn Đoàn kết" nay hồi tưởng lại ngày xưa với bao cảm xúc cay đắng ngọt bùi. Nhưng lòng họ chẳng gợn lên niềm hối tiếc gì sau bao năm nhìn lại. Nếu như Công đoàn Đoàn kết không truyền niềm tự tin cho muôn triệu người rằng bằng cách cùng sát cánh bên nhau họ có thể thay đổi mọi sự, thì Ba Lan trong năm 2010 chẳng khác gì Ukraine ngày nay -một đống đổ nát hoang tàn của biết bao hy vọng tan vỡ và bao mưu cầu chính trị bẩn thỉu. Thay vì thế, Ba Lan thành một nước Châu Âu dân chủ ổn định, nơi công dân hay bất mãn và giận dữ nhưng họ không bao giờ thụ động.
Con cháu những người chiến đấu và đau khổ cách đây 30 năm đã được nuôi dưỡng bằng "huyền thoại" Công đoàn Đoàn kết. Huyền thoại năm xưa nay tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến cuộc đời họ đang sống. Tuy nhiên họ đã thừa hưởng chính bản năng phản kháng, phản biện khởi đi từ sự khải huyền trong năm 1980 về những gì nhân đân có thể đạt được nếu cùng nhau chung sức làm.
Nhà báo Jacek Zakowski viết: " Huyền thoại ấy, đối với nhiều người trong chúng tôi, là bằng chứng rằng phong trào đã ra đời xứng đáng. Chúng tôi đã đóng góp cho thế giới này. Nhờ Công đoàn Đoàn kết, hàng triệu người Ba Lan ngày nay có thể hồi tưởng lại những điều phi thường họ đã làm, và làm không chỉ cho bản thân mình. Trong suốt chiều dài lịch sử những thế hệ như thế không nhiều."
Neal Ascherson là nhà báo người Anh nổi tiếng chuyên viết về Ba Lan và Đông Âu.
Nguồn: The Independent số ra ngày 30 tháng Tám năm 2010.
http://www.independent.co.uk/news/world/europe/the-workers-united-the-strike-that-shook-the-kremlin
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 danlambao
Cách đây ba mươi năm, những người dân bình thường thách thức một chế độ độc tài vũ trang, và đã thắng.
Vào ngày 31 tháng Tám năm 1980, những công nhân đình công ở nhà máy đóng tàu Lenin tại Gdansk đã buộc nhà cầm quyền cộng sản ở Ba Lan ký kết một hiệp ước. Bên cạnh những điều khoản khác ít quan trọng hơn, hiệp ước hứa hẹn họ công đoàn tự do và độc lập, trả tự do cho các tù chính trị, báo chí đa nguyên và không bị kiểm duyệt và quyền đình công.
Chỉ trong vòng vài ngày, những uỷ ban đình công khác trên khắp Ba Lan cũng giành được những điều kiện gần như tương tự từ các cấp Đảng lãnh đạo của họ. Chẳng bao lâu tất cả các hiệp ước địa phương tập hợp lại thành một phong trào duy nhất hoạt động trên cả nước, và đến cuối năm đã tuyển mộ được 9 triệu thành viên. Nhà lãnh đạo của phong trào này là một người thợ điện nói nhanh, ngoan đạo, và hơi tinh quái tên Lech Walesa. Tên của phong trào là "Công đoàn Đoàn kết Độc lập Tự quản".
Tất cả những ai ở lại nhà máy đóng tàu ấy trong suốt cuộc đình công khi bước ra đều đã thay đổi: họ chín chắn hơn và có lẽ có nhiều niềm tin hơn vào con người. Đây là cuộc đình công nghề nghiệp buộc những công nhân đình công vì sự nghiệp chung phải rời xa mái ấm gia đình. Cổng của nhà máy, hầu như bị che khuất đằng sau nhiều hoa tặng từ những người ủng hộ và sau những bức ảnh của đức Giáo hoàng, đã bị khoá lại, và các công nhân cấm mình không bước ra ngoài cho đến khi nào họ chiến thắng.
Bên trong, hàng ngàn người trong bộ áo quần lao động màu xám nằm dài trên cỏ lắng nghe tiếng loa phát đi những cuộc thương lượng kéo dài lê thê trong phòng Y tế và An toàn. Bên ngoài cổng, phụ nữ và trẻ em đợi chờ trong suốt những ngày tháng Tám dài và nóng bức. Đôi lúc họ ném bánh mì, salami, và táo qua hàng rào cho chồng, cha và con trai của họ. Trong sân có sẵn giấy và mực in để cho ra những bản thông báo lem luốc, nhưng không có gì nhiều để ăn. Rượu Vodka bị cấm. Tại một trong những nước nghiện thuốc lá nặng nhất ở Châu Âu, họ cấm cả hút thuốc trong phòng.
Rủi ro lại rất cao. Công nhân ở bên trong và gia đình ở bên ngoài đều nghĩ đến công an chống bạo động ZOMO đang ngứa ngáy muốn dộng dùi cui lên người họ. Còn các nhà báo ngoại quốc ở trong sân nhà máy lại nghĩ nhiều hơn đến những sư đoàn thiết giáp Xô Viết đã áp sát đến biên giới Ba Lan. Nếu họ xâm lăng, chúng tôi cho rằng nhân dân Ba Lan sẽ chống trả rồi dẫn đến điều mà chế độ gọi một cách tế nhị "bi kịch quốc gia". Nhưng đó là một khả năng các công nhân đình công từ chối thảo luận. Lại canh cánh thêm một mối lo sợ họ thấy không cần thiết.
Các cuộc đình công lan rộng và chính quyền chia rẽ trước các lý lẽ đáng sợ cuối cùng đành nhượng bộ. Vào ngày 31 tháng Tám Lech Walesa, tận hưởng từng khoảnh khắc thời điểm mang lại, cầm cây bút rất lớn, quà lưu niệm từ đức Giáo hoàng nhân cuộc viếng thăm của Người năm ngoái, và ký vào Hiệp ước Gdansk. Phó Thủ tướng Mieczyslaw Jagielski, rõ ràng căm ghét cũng không kém từng khoảnh khắc, hạ bút ký theo.
Câu chuyện chưa chấm dứt ở đấy. Trong những tháng kế tiếp, chế độ cố gắng ngăn chặn, trì hoãn hay nói chung gian lận tất cả các điểm chính trong các hiệp ước, thường xuyên đẩy Công đoàn Đoàn kết vào thế đối đầu. Nhiều lúc tưởng đâu Ba Lan suýt rơi vào cảnh nội chiến. Nền kinh tế kiệt quệ giờ sụp đổ; người dân ngủ vạ vật qua đêm trên vỉa hè để giữ chỗ xếp hàng mua thực phẩm ngày hôm sau. Bản thân Công đoàn Đoàn Kết trở nên chia rẽ, nhiều người trách Walesa không dùng đến vũ khí tối hậu là cuộc tổng đình công toàn lực. Cuối cùng, vào tháng Chạp năm 1981, tướng Jaruzelski tiến hành đảo chính quân sự, giải tán Công đoàn Đoàn kết, bắt giam hàng ngàn thành viên lãnh đạo của công đoàn và ban bố lệnh thiết quân luật. Nhưng câu chuyện cũng chưa hẳn kết thúc ở đấy. Từ đấy Công đoàn Đoàn kết trở thành phong trào kháng chiến bí mật.
Chế độ cộng sản, bấy giờ mất uy tín và bị mọi người khinh bỉ, nằm đè lên Ba Lan như con khủng long khổng lồ đang hấp hối. Trong năm 1988, làn sóng các cuộc đình công mới buộc chế độ triệu tập Hội nghị Bàn Tròn nhằm thảo luận cải cách cơ bản với Công đoàn Đoàn kết và các nhóm đối lập khác. Một thoả hiệp được sắp xếp cho một cuộc bầu cử "tự do" vào tháng Sáu năm 1989, và bản đồ các khu vực bầu cử được chế độ sửa lại để bảo đảm rằng những người cộng sản và đồng minh của họ chiếm đa số trong nghị viện.
Nhưng các cử tri tìm thấy một kẻ hở - tức yêu cầu rằng tất cả ứng cử viên phải đạt được sự ủng hộ của 50 phần trăm số phiếu bầu - thế là danh sách chế độ đưa ra bị loại bỏ. Bốn tháng sau, chính phủ đầu tiên trong khối "Châu Âu Xô Viết" dưới sự lãnh đạo của những người không cộng sản lên nắm quyền. Năm 1990, Lech Walesa được bầu làm tổng thống của nước Cộng hoà Ba Lan tự do.
Năm đầu tiên ra đời ấy của Công đoàn Đoàn kết, khởi đầu vào mùa hè và kết thúc vào một đêm tháng Chạp rất lạnh, là những ngày vui lớn tạo nên huyền thoại sống mãi. Tuy nhiên ngày nay người ta đã quên đi nhiều nét độc đáo vào thuở ban đầu của phong trào. Một nét nổi bật là vai trò phụ nữ trong những tuần lễ đầu tiên ấy. Cuộc đình công Gdansk bắt đầu do việc sa thải Ana Walentynowicz, nữ công nhân lái xe cần cẩu đeo kính, vóc dáng nhỏ bé, về sau trở thành một trong những nhà lãnh đạo cứng cỏi nhất của phong trào. Hiệp ước Gdansk phát triễn thành tuyên ngôn xã hội nhờ công lao của nữ y tá tên Alina Pienkowska, người đã yêu cầu những người đứng ra thương lượng phải bao gồm danh sách dài những cải cách về dịch vụ y tế.
Và cuộc đình công ấy sẽ chẳng khác gì một cuộc đình công bình thường nếu không có Henryka Krzywonos, nữ công nhân lái tàu điện. Một vài ngày sau khi cuộc bãi công bắt đầu, Lech Walesa tuyên bố rằng cuộc đình công kết thúc: ông sẵn sàng đồng ý với ban giám đốc nhà máy về điều kiện tăng lương, thu nhận lại những công nhân bị đuổi việc và lời hứa không được trù dập công nhân. Henryka, đại diện các nhân viên giao thông thành phố, đứng lên la to cắt ngang lời ông. Chị nói năm mươi ngàn công nhân ở các xí nghiệp khác cũng đang đình công cho nên sẽ là sự phản bội trắng trợn nếu nhà máy đóng tàu Lenin bỏ rơi họ để mặc cả lợi riêng cho mình. "Nếu anh bỏ rơi chúng tôi, chúng tôi chắc chắn sẽ thua; xe buýt làm sao đánh lại xe tăng được."
Mọi người hoan hô đồng ý. Walesa đổi ý liền chạy quanh nhà máy thông báo huỷ bỏ lệnh do chính ông đã đưa ra và phát đi lệnh mới: cuộc đình công vẫn tiếp tục và sẽ đòi thêm những yêu cầu của các nhà máy khác dọc theo bờ biển Baltic. Nhờ Henryka, một cuộc tranh chấp công nghiệp mở rộng thành một cuộc cách mạng.
Cũng lãng quên theo dòng thời gian sự thực đơn giản rằng Công đoàn Đoàn kết chính là công đoàn. Công đoàn trông cậy vào đội "cố vấn" trí thức đối lập đáng nể. Công đoàn mang đậm chất Công giáo, và các công nhân đình công quỳ xuống cử hành thánh lễ hằng ngày ngoài sân nhà máy. Phong trào được nuôi dưỡng nhờ cội rễ sâu thẳm của chủ nghĩa dân tộc truyền thống cũ, tức niềm ao ước muốn khôi phục một nước Ba Lan thật sự độc lập. Nhưng Công đoàn Đoàn Kết, hình thức của cuộc nổi dậy này, thực chất là cuộc đồng khởi của giai cấp công nhân.
Đây là sự lớn mạnh bất ngờ phi thường mang tính công đoàn dựa trên giai cấp vô sản công nghiệp, nhưng một giai cấp vô sản mà đối với họ 'chủ nghĩa xã hội" đã trở thành một từ bẩn thỉu. Giai cấp vô sản ấy chỉ có khinh bỉ nhà cầm quyền cộng sản, nhưng thoạt đầu hy vọng cùng tồn tại với họ thay vì lật đổ họ. Chiến thắng "chính trị" trong các hiệp ước Công đoàn Đoàn kết đạt được - nới lỏng kiểm duyệt, thả tự do cho tù chính trị - hầu như là những thành quả phụ đối với các uỷ ban đình công. Chính tự do ngôn luận và tự do báo chí mới là cách tốt nhất để bảo đảm rằng những yếu tố cơ bản nhất của hiệp ước - sự độc lập của công đoàn mới, lương hướng tốt hơn, không được đuổi việc vì lý do chính trị, cung cấp vật dụng cần thiết cho các phân xưởng - sẽ không bị phá hoại.
Ba Lan ngày nay khó mà nhớ lại rằng Công đoàn Đoàn Kết đã ủng hộ chủ nghĩa thường được gọi là "chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ". Hay nói cách khác, đây là một hình thức dân chủ xã hội quá khích theo đó công nhân tự kiểm soát các xí nghiệp của mình, tự chọn ra ban giám đốc và tự bỏ phiếu về các kế hoạch sản xuất. Đấy là ý nghĩa của từ "tự quản" trong tên chính thức của Công đoàn Đoàn kết. Điều này thường đi đôi với việc hưởng lương như nhau nhằm bảo đảm sự bình đẳng tại nơi làm việc.
Đây là chương trình "tự quản của công nhân" do các uỷ ban Công đoàn Đoàn kết lập ra trên khắp Ba Lan. Nhưng họ có thể thực hiện được chỉ một số phần của chương trình này. Các công nhân viên đã sung sướng khi họ đuổi các giám đốc đảng viên bất tài, và khi tham gia trong các buổi họp tuy kéo dài nhưng sôi nổi để bàn về các điều kiện làm việc. Nhưng thay đổi nền kinh tế Ba Lan thành nền dân chủ phi tập trung do "công nhân làm chủ" là chuyện hão huyền. Nền kinh tế ấy chẳng còn gì nữa để mà thay đổi. Công nghiệp ngừng hoạt động vì thiếu đồ phụ tùng thay thế còn nợ nước ngoài ngập đầu đã bóp chết nhập khẩu, trong khi ấy những người dân Ba Lan bình thường cứ đứng xếp hàng gần như suốt ngày bên ngoài các cửa hàng trống rỗng.
Ngày nay đối với những người Ba Lan yêu nước, điểm son sáng chói của Công đoàn Đoàn kết là công đoàn đã gây ra một vết thương chí mạng cho cả đế quốc Xô Viết. Các cuộc cách mạng diễn ra trong năm 1989, làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản và thống nhất Châu Âu, đều "bắt đầu ở Gdansk". Có nhiều người không đồng ý. Cố sử gia Tony Judt, trong tác phẩm lớn Hậu Chiến của mình, đã viết rằng "Chủ nghĩa cộng sản là về quyền lực, và quyền lực không nằm ở Warsaw mà ở Mạc Tư khoa. Những biến động ở Ba Lan là khúc dạo đầu xôn xao cho câu chuyện về sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, nhưng những biến động ấy vẫn là màn phụ. Còn câu chuyện thật sự lại diễn ra ở nơi khác." (Chẳng hạn những hành động của Mikhail Gorbachev.)
Nhưng đó chỉ là sự thật nửa vời. Chủ nghĩa cộng sản Ba Lan bắt đầu chết vào tháng Tám năm 1980; nên trước sau gì để cứu đất nước khỏi rơi vào cảnh hỗn loạn, nhân dân Ba Lan cũng sẽ lăn cái xác qua một bên và thành lập đại loại một nước dân chủ. Mạc Tư Khoa và các nước láng giềng cộng sản đến lúc đấy sẽ phải đối diện sự chọn lựa giữa nguy cơ gây ra cuộc chiến tranh ở Châu Âu vì vấn đề Ba Lan hay để xảy ra sự sụp đổ của toàn bộ siêu cường Xô Viết. Cái hay của Gorbachev là ông bảo đảm rằng sự sụp đổ ấy sẽ diễn ra không có đổ máu.
Nhưng cho dù Công đoàn Đoàn kết thổi tung ra cánh cổng vào tương lai, về nhiều phương diện công đoàn này đã thuộc về quá khứ. Thay vì sự khởi đầu, công đoàn là sự cáo chung của bao nhiều điều.
Trước tiên, công đoàn này là sự nổi dậy hoành tráng cuối cùng của những người sản xuất - của những con người bằng sức lao động của mình đã làm ra của cải, và cũng là những người đòi quyền kiểm soát tại nơi làm việc của mình về việc của cải nên được sản xuất và phân phối như thế nào. Trước đấy 10 năm nhà hoạt động công đoàn quá cố Jimmy Reid và các công nhân ở Tổ hợp Đóng tàu Upper Clyde đã chiếm nhà máy để làm chủ sản xuất. Nhưng ngày nay hầu như chẳng ai còn nhớ đến cảnh "công nhân làm chủ" ấy nữa. Người lao động sản xuất ra của cải hiện nay bị tảng lờ hay ở xa tít tận Trung Quốc, trong khi đó người tiêu thụ lại được quý như vua.
Và những sự kiện ở Gdansk cũng thuộc về một thời đã qua khác: thời của những nhà máy công nghiệp lớn xử dụng đến hàng ngàn công nhân. Các chế độ cộng sản khuyến khích những nhà máy to tát vì cho rằng những nhà máy như thế sẽ tạo ra giai cấp công nhân có kỷ luật để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Thực ra, những nơi này lại trở thành những pháo đài nổi loạn, nhờ chính tầm vóc của mình mà có thể tuôn trào ra đường phố những đoàn quân công nhân uất hận buộc chính quyền phải chịu khuất phục. Nhưng kỹ thuật mới cùng sự chuyển giao sản xuất sang Châu Á có nghĩa rằng ngày nay ở Châu Âu những nhà máy to lớn như thế, vốn một thời từng là thành trì của quyền lực công đoàn, chẳng còn lại bao nhiêu. Giai cấp công nhân có tổ chức, dòng thác người đội mũ vải hay mũ nồi tràn vào hay tràn ra cổng nhà máy theo tiếng còi thổi, hầu như đã chìm vào lịch sử.
Nay còn lại gì từ tinh thần tháng Tám năm ấy, tại một Ba Lan quyết tâm theo đuổi thị trường tự do tân cấp tiến và chủ nghĩa cá nhân, nơi có khoảng cách rất lớn giữa giàu và nghèo?
Công đoàn Đoàn kết sau năm 1980 đã thay hình đổi dạng nhiều lần. Từ một công đoàn nó đã trở thành phong trào kháng chiến hết lòng nhiều với độc lập dân tộc hơn với lợi quyền của công nhân. Rồi, sau năm 1989, cùng với vài vai trò khác công đoàn này trở thành phong trào chính trị cánh hữu thất bại. Ngày này nó lại trở thành một công đoàn tiếng tăm rất lớn nhưng ảnh hưởng lại hạn chế.
Tuy không nói ra, bao niềm hy vọng của Ba Lan cũng thay đổi theo. Trong những năm ảm đạm dưới chế độ thiết quân luật, lớp trẻ không còn quan tâm đến viễn cảnh công nhân làm chủ. Họ nghĩ họ nhìn thấy tại tây Âu một hệ thống thành công còn tốt hơn nhiều: chủ nghĩa tư bản dưới một thể chế dân chủ tự do.
"Thế hệ Công đoàn Đoàn kết" nay hồi tưởng lại ngày xưa với bao cảm xúc cay đắng ngọt bùi. Nhưng lòng họ chẳng gợn lên niềm hối tiếc gì sau bao năm nhìn lại. Nếu như Công đoàn Đoàn kết không truyền niềm tự tin cho muôn triệu người rằng bằng cách cùng sát cánh bên nhau họ có thể thay đổi mọi sự, thì Ba Lan trong năm 2010 chẳng khác gì Ukraine ngày nay -một đống đổ nát hoang tàn của biết bao hy vọng tan vỡ và bao mưu cầu chính trị bẩn thỉu. Thay vì thế, Ba Lan thành một nước Châu Âu dân chủ ổn định, nơi công dân hay bất mãn và giận dữ nhưng họ không bao giờ thụ động.
Con cháu những người chiến đấu và đau khổ cách đây 30 năm đã được nuôi dưỡng bằng "huyền thoại" Công đoàn Đoàn kết. Huyền thoại năm xưa nay tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến cuộc đời họ đang sống. Tuy nhiên họ đã thừa hưởng chính bản năng phản kháng, phản biện khởi đi từ sự khải huyền trong năm 1980 về những gì nhân đân có thể đạt được nếu cùng nhau chung sức làm.
Nhà báo Jacek Zakowski viết: " Huyền thoại ấy, đối với nhiều người trong chúng tôi, là bằng chứng rằng phong trào đã ra đời xứng đáng. Chúng tôi đã đóng góp cho thế giới này. Nhờ Công đoàn Đoàn kết, hàng triệu người Ba Lan ngày nay có thể hồi tưởng lại những điều phi thường họ đã làm, và làm không chỉ cho bản thân mình. Trong suốt chiều dài lịch sử những thế hệ như thế không nhiều."
Neal Ascherson là nhà báo người Anh nổi tiếng chuyên viết về Ba Lan và Đông Âu.
Nguồn: The Independent số ra ngày 30 tháng Tám năm 2010.
http://www.independent.co.uk/news/world/europe/the-workers-united-the-strike-that-shook-the-kremlin
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 danlambao
2.11.10
Trần Quốc Việt – talawas hay nỗi ám ảnh
Bài viết đầu tiên của tôi không có tựa đề và được gởi đến talawas từ văn phòng nơi tôi làm việc. Suy nghĩ, viết, và gởi đi trong giờ ăn trưa. Một khoảng thời gian không bình thường trước và sau những giờ với các con số trên máy tính. Thời gian mỗi ngày ở hãng bắt đầu từ ly cà phê, rồi những giờ với các con số, rồi kết thúc với ly cà phê chiều và những con số. Nhịp làm việc hàng ngày đều đặn là như thế. Hai ngày cuối tuần là gia đình và bao việc phải làm khác. Thời gian trước talawas là sự đều đặn bình thường, thời gian sau khi quen talawas là sự ám ảnh.
Ngày đó ông Nguyễn Minh Triết nói về cách mạng màu. Cũng ngày đó phong trào xuống đường của dân Iran đòi lại lá phiếu bị trấn áp. Màu xanh của biển người xuống đường được chắt lọc lại nhiều lần để thành những dòng máu đỏ biểu tượng loang dần ra trên thân thể của một cô gái trẻ nằm hấp hối trên đường phố.
Xúc cảm lớn dần lên trong lòng, tôi nhìn những con số trên máy tính mà nhớ đến màu xanh trong của bầu trời trên sông Hàn, nơi tôi đi dạo hàng ngày vào mỗi chiều lúc còn ở quê nhà. Thấy bao ước mơ cá nhân và tập thể của bao đời người bị vùi dập dưới gót giày hay nắm đấm của các chế độ độc tài, từ Việt Nam đến Iran, mà lòng dậy lên bao xúc cảm. Chẳng lẽ ta sinh ra trong máu của mẹ rồi kết thúc trong màu đen của huyệt mộ và giữa hai màu sinh tử ấy lại là màu xám xịt lê thê nặng nề trôi dạt đậm nhạt trên cuộc đời hay sao, chỉ vì ta sinh nhầm tổ quốc hay chọn nhầm thời gian ra đời? Ta chỉ sống có một lần nên ta không thể làm nháp cuộc đời ta với chế độ được. Trưa hôm ấy tôi viết nhanh bài thơ mà talawas đặt tên “Màu cầu vồng“.
Từ đấy tôi đến với talawas. Hay nói cách khác nhờ talawas tôi tìm lại niềm say mê tiếng Việt sau hai mươi năm say mê tiếng Anh ở quê hương mới này. Tôi viết và dịch có lẽ cho mình hơn là cho bạn đọc. Viết và dịch với tôi là thổi lại những mẩu than còn đỏ trong lò xưa tưởng đâu đã tắt lạnh theo thời gian, là học lại tiếng Việt và văn hoá Việt.
Mai này talawas ngừng hoạt động. Tôi không viết hay dịch nữa. Giã từ những ám ảnh chữ nghĩa, giã từ những giờ lang thang trên mạng tìm bài để dịch. Ngày xưa tôi đọc bài báo Mỹ hay, thấy lòng thích thú với nội dung, với chữ dùng. Ngày mai tôi vào quán cà phê Starbucks đọc các bài báo hay mà chắc lòng vương vấn thời gian talawas đã chiếm lĩnh hồn mình. Và cố dằn lòng không tự hỏi “câu này, chữ này nên dịch thế nào?”
talawas R.I. P. An giấc ngàn thu.
© 2010 Trần Quốc Việt
© 2010 talawas
Ngày đó ông Nguyễn Minh Triết nói về cách mạng màu. Cũng ngày đó phong trào xuống đường của dân Iran đòi lại lá phiếu bị trấn áp. Màu xanh của biển người xuống đường được chắt lọc lại nhiều lần để thành những dòng máu đỏ biểu tượng loang dần ra trên thân thể của một cô gái trẻ nằm hấp hối trên đường phố.
Xúc cảm lớn dần lên trong lòng, tôi nhìn những con số trên máy tính mà nhớ đến màu xanh trong của bầu trời trên sông Hàn, nơi tôi đi dạo hàng ngày vào mỗi chiều lúc còn ở quê nhà. Thấy bao ước mơ cá nhân và tập thể của bao đời người bị vùi dập dưới gót giày hay nắm đấm của các chế độ độc tài, từ Việt Nam đến Iran, mà lòng dậy lên bao xúc cảm. Chẳng lẽ ta sinh ra trong máu của mẹ rồi kết thúc trong màu đen của huyệt mộ và giữa hai màu sinh tử ấy lại là màu xám xịt lê thê nặng nề trôi dạt đậm nhạt trên cuộc đời hay sao, chỉ vì ta sinh nhầm tổ quốc hay chọn nhầm thời gian ra đời? Ta chỉ sống có một lần nên ta không thể làm nháp cuộc đời ta với chế độ được. Trưa hôm ấy tôi viết nhanh bài thơ mà talawas đặt tên “Màu cầu vồng“.
Từ đấy tôi đến với talawas. Hay nói cách khác nhờ talawas tôi tìm lại niềm say mê tiếng Việt sau hai mươi năm say mê tiếng Anh ở quê hương mới này. Tôi viết và dịch có lẽ cho mình hơn là cho bạn đọc. Viết và dịch với tôi là thổi lại những mẩu than còn đỏ trong lò xưa tưởng đâu đã tắt lạnh theo thời gian, là học lại tiếng Việt và văn hoá Việt.
Mai này talawas ngừng hoạt động. Tôi không viết hay dịch nữa. Giã từ những ám ảnh chữ nghĩa, giã từ những giờ lang thang trên mạng tìm bài để dịch. Ngày xưa tôi đọc bài báo Mỹ hay, thấy lòng thích thú với nội dung, với chữ dùng. Ngày mai tôi vào quán cà phê Starbucks đọc các bài báo hay mà chắc lòng vương vấn thời gian talawas đã chiếm lĩnh hồn mình. Và cố dằn lòng không tự hỏi “câu này, chữ này nên dịch thế nào?”
talawas R.I. P. An giấc ngàn thu.
© 2010 Trần Quốc Việt
© 2010 talawas
25.10.10
RYSZARD KAPUSCINSKI- TỰ TÌM ĐƯỜNG ĐẾN TƯƠNG LAI
Trần Quốc Việt dịch
Warsaw – Một khi ta rời xa các ốc đảo khách sạn quốc tế, phi trường và ngân hàng, hành tinh còn lại là nơi rất yên tĩnh, rất buồn chán và nhịp đời đi rất chậm. Đa số mọi người đều chỉ biết chăm lo cho đàn gia súc và sống nhờ vào mảnh vườn rau của mình.
Tốc độ và của cải đi chung với nhau. Điều này thật tai hại vì sự song hành này có nghĩa là khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, mà vào giữa thế kỷ chúng ta tưởng sẽ giảm đi, nào ngờ đang ngày càng trở nên vĩnh viễn – và càng lớn hơn. Tất cả các lý thuyết tăng trưởng kinh tế từ thập niên 1950 bàn về thế giới đang phát triến “cất cánh” và đuổi kịp rốt cuộc chẳng có ý nghĩa gì, ít nhất bên ngoài châu Á phi thường.
Hoá ra sự thật chính trong thời đại ngày nay không phải là vũ khí hạt nhân hay sự xung đột giữa các nền văn minh. Sự thật ấy chính là sự bất bình đẳng trên phạm vi toàn cầu. Kỳ lạ thay, ngược lại với các giả thuyết Mác-xít cũ kỹ, đây là sự bất bình đẳng không tạo ra cuộc nổi dậy quyết liệt tại những nơi chúng ta quen gọi “Thế giới thứ Ba”. Đây là sự bất bình đẳng đa số bây giờ mặc nhiên chấp nhận như là một phần của thực tại.
Vào thập niên 1950 và 1960 trong men say của phong trào giải phóng thuộc địa, các nhà lãnh đạo Thế giới thứ Ba và những người đi theo họ tưởng mình có thể dẹp tan bao ngăn cách giữa người giàu và kẻ nghèo, giữa Bắc và Nam, trong cuộc đồng khởi khá lớn chống đế quốc. Khoảng ba mươi năm sau kinh nghiệm cay đắng đã dạy cho nhân dân biết rằng đây là ngõ cụt. Những nhà lãnh đạo giờ tan thanh danh còn nhân dân thì tan ảo mộng.
Vì thế, người dân đã xoay sang cách hội nhập từ từ qua di dân. Từng người một, từng gia đình một, họ tìm được chốn nhỏ nương thân trong thế giới đã phát triển. Họ đi lau chùi nhà cửa và hái dâu ở California, họ rao bán những đồ trang sức rẻ tiền trước đền Pantheon ở La Mã hay trước Tháp Nghiêng Pisa.
Những hành động hội nhập cá nhân nhỏ nhoi cộng lại thành cuộc di dân tập thể này không phải là vấn đề ý thức hệ mà là vấn đề bản năng sinh tồn.
Rồi khi những người này đến được thế giới đã phát triển, họ sống khép mình lại với nhau. Họ không tự tổ chức để mưu cầu quyền lực trong xã hội cưu mang họ. Dù là người Ba Lan ở Canada, người Thổ ở Đức hay người Đại Hàn ở Mỹ, họ đều chỉ biết trông coi cửa hàng của mình hay đi làm. Họ sống phục tùng, sống điềm tĩnh và lặng lẽ, an vui với cuộc đời bé nhỏ còn lại nơi xứ lạ.
Sự hội nhập này đang thay đổi bộ mặt của châu Âu tựa như ở Mỹ. Vào một đêm hè oi bức ở Paris, từ phi trường tôi đáp xe buýt đi vào thành phố. Khi đi ngang qua khu vực người châu Phi ở Paris, tôi ngỡ mình đang ở Lagos. Năm 1996 tôi có mặt ở nhà ga Rotterdam vào độ 10 giờ tối. Lúc đó chỉ có hai người da trắng, người thâu ngân đổi tiền và tôi. Còn lại tất cả mọi người đều là da đen. Tưởng chừng như ta đang ở nhà ga nào đấy ở Nairobi.
Hiện tượng này sẽ đánh dấu tương lai của chúng ta. Người ta sẽ ở lại. Họ sẽ có con, và con họ sẽ đến trường rồi đi làm. Sự hội nhập của họ sẽ thành vĩnh viễn và tạo ra xã hội pha trộn nhiều nền văn minh.
Riêng đối với đa phần thế giới, tương lai thật sự không tồn tại. Tuyệt vọng là người bạn đường đồng hành của sự cách biệt rất lớn này giữa giàu và nghèo trên hành tinh.
Tưởng như rằng chúng ta chẳng còn sót lại trí tưởng tượng nào để giải quyết vấn đề bần hàn này của đa số. Chắc chắn nhờ cứu trợ nhân đạo khẩn cấp nạn đói có thể bị dập tắt ở nơi này hay nơi khác.
Nhưng tất cả các máy tính trên thế giới, với tất cả các dữ liệu chứa trong chúng, chẳng góp phần gì vào việc xoá bỏ cảnh bần hàn tập thể ấy. Tự nhiên ta dễ đi đến kết luận rằng trí tưởng tượng của con người có giới hạn. Một thời trí tưởng tượng này đã dựng lên những thánh đường nguy nga. Nhưng giờ đây trí tượng tượng ấy đã cạn kiệt khi đối diện với vấn đề này.
Nếu có bất kỳ bài học nào rút ra từ tất cả các cuộc cách mạng bị thất bại trong thế kỷ hai mươi, từ chủ nghĩa cộng sản, đến chủ nghĩa xã hội Liên Phi hay Liên Ả Rập, bài học đó là không có con đường tắt nào đến tương lai. Con đường ý thức hệ đưa đến thiên đường ảo ảnh là con đường lừa dối. Con đường ấy không khả thi, không thực tế.
Cho nên lịch sử đã đến Thời điểm Thực tế của mình. Nhân dân cố gắng làm những cái gì có kết quả. Họ thấy cái gì được thì làm.
Thiếu đi những tư tưởng chỉ đạo này có thể nguy hiểm vì lấp đầy vào đấy có thể là lòng thù hận và nghi ngờ. Nhưng thế giới nói chung, từ nước giàu nhất đến nước nghèo nhất, đã vượt xa ý thức hệ. Trong tâm trạng tan vỡ ảo mộng của chúng ta dường như chẳng thể nào tập hợp được bất kỳ tập thể dân chúng nào dưới một ngọn cờ tư tưởng. Điều đó hoá ra lại hay. Như thế nhân dân chắc chắn tiếp tục theo con đường trung đạo, tức con đường thực tế tiến lên dò dẫm từng bước nhỏ tuỳ thuộc vào những điều làm được và những điều không làm được. Thời đại của những bước nhảy vọt vĩ đại và giấc mơ hoang tưởng đã qua.
Như vậy trí thức sẽ trở nên như thế nào trong các xã hội thực tế? Trí thức là những người tạo ra văn hoá. Và giữa tất cả những tan vỡ ảo vọng trong thế kỷ hai mươi, văn hoá của một dân tộc nào đấy là những gì trường tồn như những trụ cột còn sót lại quanh cảnh đổ nát hoang tàn của các nhà nước và ý thức hệ.
Vai trò của trí thức cũng sẽ phải đặc biệt quan trọng với tư cách là những người canh chừng sự vận dụng truyền thông bất chính, canh chừng sự chọn lọc và uốn nắn thông tin. Vai trò chủ yếu của họ là sẽ phải nói lên những gì không được nói, vạch ra những gì không được vạch ra, bàn luận về phần của hiện thực mà có thể không đi vào được cuốn phim ăn khách hay không thể chen chân lên được màn ảnh truyền hình.
Bất kỳ sự chọn lọc thông tin nào cũng là sự kiểm duyệt. Sự kiểm duyệt có thể là độc đoán hay hành chánh, như kiểm duyệt dưới thời Xô viết cũ hay như kiểm duyệt hiện nay ở Trung Quốc. Hay kiểm duyệt có thể xuất hiện do sự chọn lựa của người tiêu thụ và của nhà sản xuất chiều theo thị hiếu tập thể tầm thường để đảm bảo kết quả bội thu ở phòng bán vé.
Cả hai hình thức chọn lọc đều xoá sạch đi sự thật về hiện thực. Vai trò của trí thức là phải đâm thủng cả hai bức màn kiểm duyệt này.
Nguồn: Nguyên tác tiếng Anh “Some Last Thoughts”, tạp chí NPQ số mùa xuân 2007. Tựa đề của người dịch.
http://www.digitalnpq.org/archive/2007_spring/17_kapuscinksi.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Warsaw – Một khi ta rời xa các ốc đảo khách sạn quốc tế, phi trường và ngân hàng, hành tinh còn lại là nơi rất yên tĩnh, rất buồn chán và nhịp đời đi rất chậm. Đa số mọi người đều chỉ biết chăm lo cho đàn gia súc và sống nhờ vào mảnh vườn rau của mình.
Tốc độ và của cải đi chung với nhau. Điều này thật tai hại vì sự song hành này có nghĩa là khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, mà vào giữa thế kỷ chúng ta tưởng sẽ giảm đi, nào ngờ đang ngày càng trở nên vĩnh viễn – và càng lớn hơn. Tất cả các lý thuyết tăng trưởng kinh tế từ thập niên 1950 bàn về thế giới đang phát triến “cất cánh” và đuổi kịp rốt cuộc chẳng có ý nghĩa gì, ít nhất bên ngoài châu Á phi thường.
Hoá ra sự thật chính trong thời đại ngày nay không phải là vũ khí hạt nhân hay sự xung đột giữa các nền văn minh. Sự thật ấy chính là sự bất bình đẳng trên phạm vi toàn cầu. Kỳ lạ thay, ngược lại với các giả thuyết Mác-xít cũ kỹ, đây là sự bất bình đẳng không tạo ra cuộc nổi dậy quyết liệt tại những nơi chúng ta quen gọi “Thế giới thứ Ba”. Đây là sự bất bình đẳng đa số bây giờ mặc nhiên chấp nhận như là một phần của thực tại.
Vào thập niên 1950 và 1960 trong men say của phong trào giải phóng thuộc địa, các nhà lãnh đạo Thế giới thứ Ba và những người đi theo họ tưởng mình có thể dẹp tan bao ngăn cách giữa người giàu và kẻ nghèo, giữa Bắc và Nam, trong cuộc đồng khởi khá lớn chống đế quốc. Khoảng ba mươi năm sau kinh nghiệm cay đắng đã dạy cho nhân dân biết rằng đây là ngõ cụt. Những nhà lãnh đạo giờ tan thanh danh còn nhân dân thì tan ảo mộng.
Vì thế, người dân đã xoay sang cách hội nhập từ từ qua di dân. Từng người một, từng gia đình một, họ tìm được chốn nhỏ nương thân trong thế giới đã phát triển. Họ đi lau chùi nhà cửa và hái dâu ở California, họ rao bán những đồ trang sức rẻ tiền trước đền Pantheon ở La Mã hay trước Tháp Nghiêng Pisa.
Những hành động hội nhập cá nhân nhỏ nhoi cộng lại thành cuộc di dân tập thể này không phải là vấn đề ý thức hệ mà là vấn đề bản năng sinh tồn.
Rồi khi những người này đến được thế giới đã phát triển, họ sống khép mình lại với nhau. Họ không tự tổ chức để mưu cầu quyền lực trong xã hội cưu mang họ. Dù là người Ba Lan ở Canada, người Thổ ở Đức hay người Đại Hàn ở Mỹ, họ đều chỉ biết trông coi cửa hàng của mình hay đi làm. Họ sống phục tùng, sống điềm tĩnh và lặng lẽ, an vui với cuộc đời bé nhỏ còn lại nơi xứ lạ.
Sự hội nhập này đang thay đổi bộ mặt của châu Âu tựa như ở Mỹ. Vào một đêm hè oi bức ở Paris, từ phi trường tôi đáp xe buýt đi vào thành phố. Khi đi ngang qua khu vực người châu Phi ở Paris, tôi ngỡ mình đang ở Lagos. Năm 1996 tôi có mặt ở nhà ga Rotterdam vào độ 10 giờ tối. Lúc đó chỉ có hai người da trắng, người thâu ngân đổi tiền và tôi. Còn lại tất cả mọi người đều là da đen. Tưởng chừng như ta đang ở nhà ga nào đấy ở Nairobi.
Hiện tượng này sẽ đánh dấu tương lai của chúng ta. Người ta sẽ ở lại. Họ sẽ có con, và con họ sẽ đến trường rồi đi làm. Sự hội nhập của họ sẽ thành vĩnh viễn và tạo ra xã hội pha trộn nhiều nền văn minh.
Riêng đối với đa phần thế giới, tương lai thật sự không tồn tại. Tuyệt vọng là người bạn đường đồng hành của sự cách biệt rất lớn này giữa giàu và nghèo trên hành tinh.
Tưởng như rằng chúng ta chẳng còn sót lại trí tưởng tượng nào để giải quyết vấn đề bần hàn này của đa số. Chắc chắn nhờ cứu trợ nhân đạo khẩn cấp nạn đói có thể bị dập tắt ở nơi này hay nơi khác.
Nhưng tất cả các máy tính trên thế giới, với tất cả các dữ liệu chứa trong chúng, chẳng góp phần gì vào việc xoá bỏ cảnh bần hàn tập thể ấy. Tự nhiên ta dễ đi đến kết luận rằng trí tưởng tượng của con người có giới hạn. Một thời trí tưởng tượng này đã dựng lên những thánh đường nguy nga. Nhưng giờ đây trí tượng tượng ấy đã cạn kiệt khi đối diện với vấn đề này.
Nếu có bất kỳ bài học nào rút ra từ tất cả các cuộc cách mạng bị thất bại trong thế kỷ hai mươi, từ chủ nghĩa cộng sản, đến chủ nghĩa xã hội Liên Phi hay Liên Ả Rập, bài học đó là không có con đường tắt nào đến tương lai. Con đường ý thức hệ đưa đến thiên đường ảo ảnh là con đường lừa dối. Con đường ấy không khả thi, không thực tế.
Cho nên lịch sử đã đến Thời điểm Thực tế của mình. Nhân dân cố gắng làm những cái gì có kết quả. Họ thấy cái gì được thì làm.
Thiếu đi những tư tưởng chỉ đạo này có thể nguy hiểm vì lấp đầy vào đấy có thể là lòng thù hận và nghi ngờ. Nhưng thế giới nói chung, từ nước giàu nhất đến nước nghèo nhất, đã vượt xa ý thức hệ. Trong tâm trạng tan vỡ ảo mộng của chúng ta dường như chẳng thể nào tập hợp được bất kỳ tập thể dân chúng nào dưới một ngọn cờ tư tưởng. Điều đó hoá ra lại hay. Như thế nhân dân chắc chắn tiếp tục theo con đường trung đạo, tức con đường thực tế tiến lên dò dẫm từng bước nhỏ tuỳ thuộc vào những điều làm được và những điều không làm được. Thời đại của những bước nhảy vọt vĩ đại và giấc mơ hoang tưởng đã qua.
Như vậy trí thức sẽ trở nên như thế nào trong các xã hội thực tế? Trí thức là những người tạo ra văn hoá. Và giữa tất cả những tan vỡ ảo vọng trong thế kỷ hai mươi, văn hoá của một dân tộc nào đấy là những gì trường tồn như những trụ cột còn sót lại quanh cảnh đổ nát hoang tàn của các nhà nước và ý thức hệ.
Vai trò của trí thức cũng sẽ phải đặc biệt quan trọng với tư cách là những người canh chừng sự vận dụng truyền thông bất chính, canh chừng sự chọn lọc và uốn nắn thông tin. Vai trò chủ yếu của họ là sẽ phải nói lên những gì không được nói, vạch ra những gì không được vạch ra, bàn luận về phần của hiện thực mà có thể không đi vào được cuốn phim ăn khách hay không thể chen chân lên được màn ảnh truyền hình.
Bất kỳ sự chọn lọc thông tin nào cũng là sự kiểm duyệt. Sự kiểm duyệt có thể là độc đoán hay hành chánh, như kiểm duyệt dưới thời Xô viết cũ hay như kiểm duyệt hiện nay ở Trung Quốc. Hay kiểm duyệt có thể xuất hiện do sự chọn lựa của người tiêu thụ và của nhà sản xuất chiều theo thị hiếu tập thể tầm thường để đảm bảo kết quả bội thu ở phòng bán vé.
Cả hai hình thức chọn lọc đều xoá sạch đi sự thật về hiện thực. Vai trò của trí thức là phải đâm thủng cả hai bức màn kiểm duyệt này.
Nguồn: Nguyên tác tiếng Anh “Some Last Thoughts”, tạp chí NPQ số mùa xuân 2007. Tựa đề của người dịch.
http://www.digitalnpq.org/archive/2007_spring/17_kapuscinksi.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
22.10.10
RYSZARD KAPUSCINSKI- MỘT THẾ GIỚI, HAI NỀN VĂN MINH
Trần Quốc Việt dịch
Warsaw- Trong các xã hội lịch sử, tất cả mọi sự đều được quyết định trong quá khứ. Tất cả nghị lực, tình cảm, say mê của họ đều hướng về quá khứ, đều dành cho việc thảo luận lịch sử, cho ý nghĩa lịch sử. Họ sống trong vương quốc của huyền thoại và nòi giống lập quốc. Họ không thể nói về tương lai vì ở họ tương lai không gợi lên niềm say mê như lịch sử. Họ là dân tộc hoàn toàn lịch sử, sinh ra và sống trong lịch sử của những đấu tranh, phân chia và xung đột lớn. Họ giống như người cựu binh già. Tất cả những điều ông ta muốn nói toàn là về những trải nghiệm thử thách lớn lao chất chứa bao tình cảm sâu đậm khiến ông không bao giờ có thể quên được.
Tất cả những xã hội lịch sử đều sống với gánh nặng làm lu mờ tâm hồn, trí tưởng tượng của họ. Họ phải sống đắm mình trong lịch sử; nhờ lịch sử họ thể hiện mình. Nếu họ mất lịch sử, họ mất bản sắc của họ. Lúc đó họ sẽ không chỉ vô danh. Họ sẽ không còn tồn tại. Quên lịch sử là quên chính mình- một sự bất khả về sinh học và tâm lý. Lịch sử là vấn đề sinh tồn.
Tuy nhiên, để tạo ra giá trị mới, xã hội cần phải có tâm hồn trong sáng để cho phép xã hội sẽ tập trung vào làm điều gì đấy nhắm vào tương lai. Đây là bi kịch các xã hội lịch sử đang mắc phải.
Mỹ, ngược lại, là một quốc gia may mắn. Mỹ không có vấn đề với lịch sử. Tinh thần Mỹ là mở rộng vào tương lai. Là xã hội trẻ, Mỹ có thể đầy sáng tạo khi không có gánh nặng lịch sử đè nó xuống, giữ chặt chân nó, trói chặt tay nó lại.
Nguy cơ đối với Mỹ, và nguy cơ đối với cả thế giới, là rằng sự phát triển của Mỹ rất năng động và sáng tạo đến mức Mỹ sẽ là một thế giới hoàn toàn khác trên cùng hành tinh này. Mỗi ngày, Mỹ đang tạo ra càng lúc càng nhiều những yếu tố của nền văn minh hoàn toàn mới, càng ngày càng tách xa nền văn minh của thế giới còn lại. Khoảng cách này không chỉ là vấn đề của cải và kỹ thuật, mà còn là vấn đề tinh thần.
Địa vị cùng sự ngự trị của nước Mỹ năng động và sự tê liệt của các xã hội lịch sử - đây là vấn đề lớn cho tương lai của nhân loại. Khác với viễn cảnh tất cả chúng ta đều tưởng cách đây 20 năm, thế giới hiện không hội tụ, mà tản mác ra như những thiên hà.
Khi tôi lần đầu tiên đến châu Phi cách đây 30 năm, tôi có thể bắt gặp nền nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và y học cũng hơi hiện đại. Ít nhiều cũng tương tự như châu Âu sau khi bị chiến tranh tàn phá.
Ngày nay, ngay cả những gì còn sót lại từ chủ nghĩa thực dân ở châu Phi cũng hư hỏng dần đi. Chẳng có cái gì mới được xây dựng nên. Trong khi ấy, Mỹ đang tiến vào không gian mạng.
Sau Thế chiến thứ Hai, tại các nước Thế giới thứ Ba đã có sự giác ngộ ý thức lớn lao. Đặc biệt đối với châu Phi và châu Á, chiến tranh đã chứng minh rằng các mẫu quốc, như Anh hay Pháp, có thể bị đánh bại. Các trung tâm quyền lực trên thế giới cũng chuyển từ Đức, Nhật và từ các đế quốc Pháp và Anh sang Hoa Kỳ và Liên Xô – những nước vốn không phải là các cường quốc thực dân truyền thống. Những biến chuyển này đã thuyết phục những người trẻ theo đuổi chủ nghĩa dân tộc tại các nước Thế giới thứ Ba rằng họ có thể giành được độc lập.
Cuộc đấu tranh giành độc lập có ba giai đoạn. Đầu tiên là các phong trào giải phóng dân tộc, đặc biệt tại các nước châu Á rộng lớn nhất. Ấn Độ đạt được độc lập năm 1947 và Trung Quốc năm 1949. Thời kỳ này chấm dứt bằng Hội nghị Bandung năm 1955, tại đây triết học chính trị đầu tiên của Thế giới thứ Ba, tức phi liên kết, đã ra đời. Triết học này được các nhân vật đầy màu sắc của thập niên 1950 cổ vũ – Nehru của Ấn Độ, Nasser của Ai Cập, Sukarno của Indonesia.
Đặc trưng cho giai đoạn thứ hai, trong thập niên 1960, là niềm lạc quan mãnh liệt. Chính trong thời kỳ này, phong trào giải phóng thuộc địa lan nhanh nhờ lấy triết học phi liên kết làm kim chỉ nam. Năm 1964, 14 nước châu Phi giành được độc lập.
Đến giai đoạn thứ ba, khởi đầu vào thập niên 1970, niềm lạc quan mãnh liệt ấy vốn đi cùng với sự khai sinh của các quốc gia bắt đầu tiêu tan. Niềm tin rằng độc lập dân tộc tất nhiên có nghĩa là độc lập kinh tế và độc lập văn hoá đã chứng tỏ là một khái niệm ảo tưởng và hoàn toàn không thực tế.
Giai đoạn thứ tư được khai màn bởi cuộc cách mạng Iran năm 1979, ra đời như là phản ứng đối với những nỗ lực phát triển đầy lạc quan. Bản chất kỹ thuật của các giá trị hiện đại và các kế hoạch công nghiệp trong thời kỳ đầy lạc quan ấy đã bỏ qua khía cạnh cực kỳ quan trọng của các xã hội lịch sử, tức các giá trị truyền thống về đạo đức và tôn giáo. Các xã hội lịch sử truyền thống không chấp nhận lối sống mới này vì họ cảm thấy lối sống ấy đe dọa đến phần cơ bản nhất trong bản sắc của họ.
Chẳng hạn, du nhập nhanh chóng kỹ thuật vào Iran lại bị những người Iran coi đó là một sự lăng nhục đối với một dân tộc có văn hoá truyền thống lâu đời. Vì họ không thể học kỹ thuật nên họ cảm thấy xấu hổ. Sự lăng nhục này gây ra phản ứng rất dữ dội. Người dân Iran gần như phá huỷ các nhà máy đường do các chuyên gia người Âu xây dựng bởi vì họ cảm thấy rất phẫn nộ. Vì du nhập từ bên ngoài, họ cảm thấy kỹ thuật được cài vào để thống trị họ. Thay đổi diễn ra quá nhanh nên họ không thể nào chấp nhận được thay đổi.
Đông đảo quần chúng Iran đi theo giáo chủ Ayatollah Khomeini nhận thấy rằng những kế hoạch kinh tế hoành tráng của Shah và các cố vấn tây hoá của ông không đủ để đưa họ lên đến cõi trên, hay lên đến thiên đường. Vì thể họ lại càng nhấn mạnh nhiều vào các giá trị cũ hơn. Người dân núp đằng sau các giá trị cũ này để bảo vệ mình. Những truyền thống cũ và tôn giáo cũ là nơi trú ẩn an toàn duy nhất bày sẵn cho họ.
Hôm nay chúng ta thấy phản ứng diễn ra trên khắp thế giới Hồi giáo thể hiện qua các phong trào tôn giáo và cảm tính chỉ mới là sự khởi đầu. Cuộc cách mạng Iran đã mở ra một thời kỳ mới trong các nước Thế giới thứ Ba – thời kỳ giải phóng thuộc địa về văn hoá. Nhưng cuộc phản cách mạng này không thể thành công. Bởi lẽ nó không sáng tạo mà chỉ chống đỡ. Nó vẫn còn định hình bởi những gì nó kháng cự. Tất yếu nó sẽ dẫn đến sự tê liệt. Trong khi ấy, Mỹ đang di chuyển ở tốc độ ánh sáng tương đối.
Không có gì sẽ thay đổi trừ phi các xã hội lịch sử học để sáng tạo, học để tạo ra cuộc cách mạng tinh thần, cách mạng thái độ, cách mạng tổ chức. Nếu họ không huỷ diệt lịch sử, thì lịch sử nhất định huỷ diệt họ.
Ryszard Kapuscinski (1932-2007) là nhà báo Ba Lan nổi tiếng toàn cầu. Trước khi CNN ra đời, ông đã đến tận những nơi heo hút của Thế giới thứ Ba để cảm nghiệm và ghi chép. Từ đấy một loạt tác phẩm nổi tiếng ra đời như Shah của Shahs, Hoàng đế, hay Chiến tranh Túc cầu.
Nguồn: Tạp chí NPQ số mùa Đông năm 2002
http://www.digitalnpq.org/archive/2002_winter/kapuscinski.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Warsaw- Trong các xã hội lịch sử, tất cả mọi sự đều được quyết định trong quá khứ. Tất cả nghị lực, tình cảm, say mê của họ đều hướng về quá khứ, đều dành cho việc thảo luận lịch sử, cho ý nghĩa lịch sử. Họ sống trong vương quốc của huyền thoại và nòi giống lập quốc. Họ không thể nói về tương lai vì ở họ tương lai không gợi lên niềm say mê như lịch sử. Họ là dân tộc hoàn toàn lịch sử, sinh ra và sống trong lịch sử của những đấu tranh, phân chia và xung đột lớn. Họ giống như người cựu binh già. Tất cả những điều ông ta muốn nói toàn là về những trải nghiệm thử thách lớn lao chất chứa bao tình cảm sâu đậm khiến ông không bao giờ có thể quên được.
Tất cả những xã hội lịch sử đều sống với gánh nặng làm lu mờ tâm hồn, trí tưởng tượng của họ. Họ phải sống đắm mình trong lịch sử; nhờ lịch sử họ thể hiện mình. Nếu họ mất lịch sử, họ mất bản sắc của họ. Lúc đó họ sẽ không chỉ vô danh. Họ sẽ không còn tồn tại. Quên lịch sử là quên chính mình- một sự bất khả về sinh học và tâm lý. Lịch sử là vấn đề sinh tồn.
Tuy nhiên, để tạo ra giá trị mới, xã hội cần phải có tâm hồn trong sáng để cho phép xã hội sẽ tập trung vào làm điều gì đấy nhắm vào tương lai. Đây là bi kịch các xã hội lịch sử đang mắc phải.
Mỹ, ngược lại, là một quốc gia may mắn. Mỹ không có vấn đề với lịch sử. Tinh thần Mỹ là mở rộng vào tương lai. Là xã hội trẻ, Mỹ có thể đầy sáng tạo khi không có gánh nặng lịch sử đè nó xuống, giữ chặt chân nó, trói chặt tay nó lại.
Nguy cơ đối với Mỹ, và nguy cơ đối với cả thế giới, là rằng sự phát triển của Mỹ rất năng động và sáng tạo đến mức Mỹ sẽ là một thế giới hoàn toàn khác trên cùng hành tinh này. Mỗi ngày, Mỹ đang tạo ra càng lúc càng nhiều những yếu tố của nền văn minh hoàn toàn mới, càng ngày càng tách xa nền văn minh của thế giới còn lại. Khoảng cách này không chỉ là vấn đề của cải và kỹ thuật, mà còn là vấn đề tinh thần.
Địa vị cùng sự ngự trị của nước Mỹ năng động và sự tê liệt của các xã hội lịch sử - đây là vấn đề lớn cho tương lai của nhân loại. Khác với viễn cảnh tất cả chúng ta đều tưởng cách đây 20 năm, thế giới hiện không hội tụ, mà tản mác ra như những thiên hà.
Khi tôi lần đầu tiên đến châu Phi cách đây 30 năm, tôi có thể bắt gặp nền nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và y học cũng hơi hiện đại. Ít nhiều cũng tương tự như châu Âu sau khi bị chiến tranh tàn phá.
Ngày nay, ngay cả những gì còn sót lại từ chủ nghĩa thực dân ở châu Phi cũng hư hỏng dần đi. Chẳng có cái gì mới được xây dựng nên. Trong khi ấy, Mỹ đang tiến vào không gian mạng.
Sau Thế chiến thứ Hai, tại các nước Thế giới thứ Ba đã có sự giác ngộ ý thức lớn lao. Đặc biệt đối với châu Phi và châu Á, chiến tranh đã chứng minh rằng các mẫu quốc, như Anh hay Pháp, có thể bị đánh bại. Các trung tâm quyền lực trên thế giới cũng chuyển từ Đức, Nhật và từ các đế quốc Pháp và Anh sang Hoa Kỳ và Liên Xô – những nước vốn không phải là các cường quốc thực dân truyền thống. Những biến chuyển này đã thuyết phục những người trẻ theo đuổi chủ nghĩa dân tộc tại các nước Thế giới thứ Ba rằng họ có thể giành được độc lập.
Cuộc đấu tranh giành độc lập có ba giai đoạn. Đầu tiên là các phong trào giải phóng dân tộc, đặc biệt tại các nước châu Á rộng lớn nhất. Ấn Độ đạt được độc lập năm 1947 và Trung Quốc năm 1949. Thời kỳ này chấm dứt bằng Hội nghị Bandung năm 1955, tại đây triết học chính trị đầu tiên của Thế giới thứ Ba, tức phi liên kết, đã ra đời. Triết học này được các nhân vật đầy màu sắc của thập niên 1950 cổ vũ – Nehru của Ấn Độ, Nasser của Ai Cập, Sukarno của Indonesia.
Đặc trưng cho giai đoạn thứ hai, trong thập niên 1960, là niềm lạc quan mãnh liệt. Chính trong thời kỳ này, phong trào giải phóng thuộc địa lan nhanh nhờ lấy triết học phi liên kết làm kim chỉ nam. Năm 1964, 14 nước châu Phi giành được độc lập.
Đến giai đoạn thứ ba, khởi đầu vào thập niên 1970, niềm lạc quan mãnh liệt ấy vốn đi cùng với sự khai sinh của các quốc gia bắt đầu tiêu tan. Niềm tin rằng độc lập dân tộc tất nhiên có nghĩa là độc lập kinh tế và độc lập văn hoá đã chứng tỏ là một khái niệm ảo tưởng và hoàn toàn không thực tế.
Giai đoạn thứ tư được khai màn bởi cuộc cách mạng Iran năm 1979, ra đời như là phản ứng đối với những nỗ lực phát triển đầy lạc quan. Bản chất kỹ thuật của các giá trị hiện đại và các kế hoạch công nghiệp trong thời kỳ đầy lạc quan ấy đã bỏ qua khía cạnh cực kỳ quan trọng của các xã hội lịch sử, tức các giá trị truyền thống về đạo đức và tôn giáo. Các xã hội lịch sử truyền thống không chấp nhận lối sống mới này vì họ cảm thấy lối sống ấy đe dọa đến phần cơ bản nhất trong bản sắc của họ.
Chẳng hạn, du nhập nhanh chóng kỹ thuật vào Iran lại bị những người Iran coi đó là một sự lăng nhục đối với một dân tộc có văn hoá truyền thống lâu đời. Vì họ không thể học kỹ thuật nên họ cảm thấy xấu hổ. Sự lăng nhục này gây ra phản ứng rất dữ dội. Người dân Iran gần như phá huỷ các nhà máy đường do các chuyên gia người Âu xây dựng bởi vì họ cảm thấy rất phẫn nộ. Vì du nhập từ bên ngoài, họ cảm thấy kỹ thuật được cài vào để thống trị họ. Thay đổi diễn ra quá nhanh nên họ không thể nào chấp nhận được thay đổi.
Đông đảo quần chúng Iran đi theo giáo chủ Ayatollah Khomeini nhận thấy rằng những kế hoạch kinh tế hoành tráng của Shah và các cố vấn tây hoá của ông không đủ để đưa họ lên đến cõi trên, hay lên đến thiên đường. Vì thể họ lại càng nhấn mạnh nhiều vào các giá trị cũ hơn. Người dân núp đằng sau các giá trị cũ này để bảo vệ mình. Những truyền thống cũ và tôn giáo cũ là nơi trú ẩn an toàn duy nhất bày sẵn cho họ.
Hôm nay chúng ta thấy phản ứng diễn ra trên khắp thế giới Hồi giáo thể hiện qua các phong trào tôn giáo và cảm tính chỉ mới là sự khởi đầu. Cuộc cách mạng Iran đã mở ra một thời kỳ mới trong các nước Thế giới thứ Ba – thời kỳ giải phóng thuộc địa về văn hoá. Nhưng cuộc phản cách mạng này không thể thành công. Bởi lẽ nó không sáng tạo mà chỉ chống đỡ. Nó vẫn còn định hình bởi những gì nó kháng cự. Tất yếu nó sẽ dẫn đến sự tê liệt. Trong khi ấy, Mỹ đang di chuyển ở tốc độ ánh sáng tương đối.
Không có gì sẽ thay đổi trừ phi các xã hội lịch sử học để sáng tạo, học để tạo ra cuộc cách mạng tinh thần, cách mạng thái độ, cách mạng tổ chức. Nếu họ không huỷ diệt lịch sử, thì lịch sử nhất định huỷ diệt họ.
Ryszard Kapuscinski (1932-2007) là nhà báo Ba Lan nổi tiếng toàn cầu. Trước khi CNN ra đời, ông đã đến tận những nơi heo hút của Thế giới thứ Ba để cảm nghiệm và ghi chép. Từ đấy một loạt tác phẩm nổi tiếng ra đời như Shah của Shahs, Hoàng đế, hay Chiến tranh Túc cầu.
Nguồn: Tạp chí NPQ số mùa Đông năm 2002
http://www.digitalnpq.org/archive/2002_winter/kapuscinski.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
17.10.10
GYORGY DRAGOMAN-CỘI RỄ TOÀN TRỊ CỦA BÙN ĐỎ
Trần Quốc Việt dịch
BUDAPEST
Những dấu bánh xe màu đỏ in hằn trên các con đường dẫn lên núi lửa Somlo đã tắt, quê hương vùng sản xuất rượu nho nhỏ nhất của Hungary và chỉ cách nơi xảy ra thảm hoạ môi trường tồi tệ nhất trong lịch sử nước này có vài dặm.
Gần hai tuần đã trôi qua kể từ khi đập xi măng ngăn hàng triệu gallon chất thải độc hại bị vỡ khiến chất thải chảy tràn ngập vào hai làng và làm thiệt mạng chín người. Những cánh đồng hiện vẫn còn đỏ, in hình một cách ma quái trong màu trắng tựa như phấn _ thạch cao mà các tổ cứu hộ dùng để trung hoà lớp bụi gây phỏng da.
Cha vợ tôi mới mua một vườn nho nhỏ trên Somlo. Mùa thu này là vụ thu hoạch gia đình đầu tiên nên hai con tôi cứ háo hức chờ đến ngày được đi đạp nho. Do có vụ tràn bùn, chúng cũng biết thêm một điều khác.
Hai cháu hỏi tôi đây có phải là dung nham từ núi lửa phun ra; chúng còn muốn biết liệu nó có giống như tai hoạ hạt nhân mà tôi có dịp bàn đến trong sách tôi viết. Tôi đáp: " Không, đây không phải là dung nham; đúng, nó gây phỏng; không, không có phóng xạ."
Các con tôi không phải là những người duy nhất muốn biết nhiều hơn về "bùn đỏ". Chất thải đến hàng trăm triệu mét khối được trữ trong các hồ chứa trên khắp miền này của Hungary chính xác là chất gì?
Cha vợ tôi bảo tôi ông biết về cái đập đó; mọi người trong vùng đều biết. Nhưng tại vùng này của thế giới người ta lại có niềm tin kỳ lạ về sự tồn tại bất tử của bê tông nên người dân xây nhà chỉ cách đập vài trăm mét, trong khi đó MAL, công ty sở hữu đập, lại rất tự tin về sự bền vững của đập đến mức công ty không có những quy định an toàn phòng khi đập bị vỡ.
Giờ đây mọi thứ đều không rõ ràng. Những ngôi làng bị nạn nằm giữa phong cảnh đỏ như sao Hoả. Người dân cố gắng dọn sạch bằng xẻng xúc tuyết, dụng cụ thường không được lấy ra dùng trong vài tháng tới. Âm thanh đáng sợ của chất thải vỗ bì bõm quanh bề lưỡi xẻng cứ vọng hoài trong tai, và làm cho sự thiếu thông tin đáng tin cậy lúc ban đầu càng thêm đau đớn hơn.
Ngay sau vụ tràn chất thải, Viện Hàn lâm Khoa học Hungary đã tuyên bố chất thải màu đỏ không độc. Tổng giám đốc MAL đã nói trên đài truyền hình rằng chất thải là chất hoàn toàn vô hại, chỉ cần dùng nước rửa sạch đi là xong.
Người ta đã nhanh chóng chứng minh rằng họ nói sai. Những nhân viên cấp cứu có mặt đầu tiên tại hiện trường đã bị phỏng nặng; rõ ràng không ai báo cho họ biết chất thải có nồng độ pH 13, gây phỏng như dung dịch kiềm.
Khoảng cách giữa những tuyên bố chính thức và hiện thực của nhân dân đang chết tưởng chừng khơi rộng ra đường nứt trên tường. Đối với nhiều người, sự kiện này gợi tưởng đến thời quá khứ tưởng chừng xa xăm khi hầu như toàn bộ cuộc sống ở Hungary được định hình bởi bao tin đồn và dối trá, khi mọi sự chỉ là trò chơi giả dối và mộng tưởng.
Lần này chúng ta đã đối diện với một nguy cơ chưa từng biết, dù nguy cơ ấy sinh ra từ một chất chúng ta đã và đang tạo ra trong hàng chục năm trời -một sản phẩm phụ trong quá trình sản xuất để chuyển bauxite sang alumina, để dùng tạo ra nhôm. Sợ hãi hoá thành giận dữ, và nhân dân đòi muốn biết sự thật.
Viện hàn lâm vội vã lấy mẫu mới. Mười ngày sau khi chất thải bắt đầu chảy tràn ra họ mới cho chúng ta biết rằng chất thải quả là độc, có chứa lượng thạch tín cao; khi nó khô, nó sẽ biến thành bụi độc.
Tin này thật chẳng an lòng, nhưng ít ra bây giờ chúng ta biết bùn đỏ thật sự đe doạ như thế nào. Tuy các viên chức chưa nghĩ ra chính xác cách nào để ngăn chặn và dọn sạch vụ tràn chất thải này, một đập phòng hộ mới bao quanh các làng đã chuẩn bị xong, và họ bảo chúng ta rằng chẳng bao lâu nhiều người sẽ có thể về nhà.
Tuy nhiên, rõ ràng thảm hoạ này đã buộc Hungary phải đánh giá lại di sản môi trường, thực tiễn trữ những chất thải công nghiệp độc hại trên khắp cả nước suốt hàng chục năm nay của mình. Bước kế tiếp là phải tìm ra một cách chính xác chất thải nào đang được trữ lại, ở đâu và trong điều kiện như thế nào. Hơn nữa, chúng ta còn phải tìm ra cách tốt nhất để loại bỏ hay kiểm soát được những chất này.
Sự đánh giá lại này nhất định phải là cuộc thảo luận chính trị liên quan không chỉ đến các nhà khoa học. Cuộc thảo luận phải bàn về chuyện tại sao chúng ta đã lại từng chấp nhận những mối đe doạ như thế đối với nhân dân dân và đối với môi trường, như thế có nghĩa là phải bàn cãi về quá khứ của chúng ta - một chủ đề nhiều người đang cầm quyền rất cố muốn tránh.
Cha vợ tôi nói với tôi rằng những người bạn làm rượu nho của ông đã bắt đầu xoá sạch những dấu bánh xe trên những con đường quanh Somlo. Ông nói, ô nhiễm chưa bao giờ chạm đến nguồn cung cấp nước. Từ phương bắc, cách núi lửa rất xa, gió thổi về nên những người làm rượu nho tin có thể cứu được vụ thu hoạch nho. Nhưng đó chỉ là điều duy nhất họ chắc chắn.
Tựa đề của người dịch. Nguên tác tiếng Anh " Seeing Red in Hungary"
Nguồn: New York Times số ra ngày 17 tháng Mười năm 2010
www.nytimes.com/2010/10/17/opinion/17Dragoman.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
BUDAPEST
Những dấu bánh xe màu đỏ in hằn trên các con đường dẫn lên núi lửa Somlo đã tắt, quê hương vùng sản xuất rượu nho nhỏ nhất của Hungary và chỉ cách nơi xảy ra thảm hoạ môi trường tồi tệ nhất trong lịch sử nước này có vài dặm.
Gần hai tuần đã trôi qua kể từ khi đập xi măng ngăn hàng triệu gallon chất thải độc hại bị vỡ khiến chất thải chảy tràn ngập vào hai làng và làm thiệt mạng chín người. Những cánh đồng hiện vẫn còn đỏ, in hình một cách ma quái trong màu trắng tựa như phấn _ thạch cao mà các tổ cứu hộ dùng để trung hoà lớp bụi gây phỏng da.
Cha vợ tôi mới mua một vườn nho nhỏ trên Somlo. Mùa thu này là vụ thu hoạch gia đình đầu tiên nên hai con tôi cứ háo hức chờ đến ngày được đi đạp nho. Do có vụ tràn bùn, chúng cũng biết thêm một điều khác.
Hai cháu hỏi tôi đây có phải là dung nham từ núi lửa phun ra; chúng còn muốn biết liệu nó có giống như tai hoạ hạt nhân mà tôi có dịp bàn đến trong sách tôi viết. Tôi đáp: " Không, đây không phải là dung nham; đúng, nó gây phỏng; không, không có phóng xạ."
Các con tôi không phải là những người duy nhất muốn biết nhiều hơn về "bùn đỏ". Chất thải đến hàng trăm triệu mét khối được trữ trong các hồ chứa trên khắp miền này của Hungary chính xác là chất gì?
Cha vợ tôi bảo tôi ông biết về cái đập đó; mọi người trong vùng đều biết. Nhưng tại vùng này của thế giới người ta lại có niềm tin kỳ lạ về sự tồn tại bất tử của bê tông nên người dân xây nhà chỉ cách đập vài trăm mét, trong khi đó MAL, công ty sở hữu đập, lại rất tự tin về sự bền vững của đập đến mức công ty không có những quy định an toàn phòng khi đập bị vỡ.
Giờ đây mọi thứ đều không rõ ràng. Những ngôi làng bị nạn nằm giữa phong cảnh đỏ như sao Hoả. Người dân cố gắng dọn sạch bằng xẻng xúc tuyết, dụng cụ thường không được lấy ra dùng trong vài tháng tới. Âm thanh đáng sợ của chất thải vỗ bì bõm quanh bề lưỡi xẻng cứ vọng hoài trong tai, và làm cho sự thiếu thông tin đáng tin cậy lúc ban đầu càng thêm đau đớn hơn.
Ngay sau vụ tràn chất thải, Viện Hàn lâm Khoa học Hungary đã tuyên bố chất thải màu đỏ không độc. Tổng giám đốc MAL đã nói trên đài truyền hình rằng chất thải là chất hoàn toàn vô hại, chỉ cần dùng nước rửa sạch đi là xong.
Người ta đã nhanh chóng chứng minh rằng họ nói sai. Những nhân viên cấp cứu có mặt đầu tiên tại hiện trường đã bị phỏng nặng; rõ ràng không ai báo cho họ biết chất thải có nồng độ pH 13, gây phỏng như dung dịch kiềm.
Khoảng cách giữa những tuyên bố chính thức và hiện thực của nhân dân đang chết tưởng chừng khơi rộng ra đường nứt trên tường. Đối với nhiều người, sự kiện này gợi tưởng đến thời quá khứ tưởng chừng xa xăm khi hầu như toàn bộ cuộc sống ở Hungary được định hình bởi bao tin đồn và dối trá, khi mọi sự chỉ là trò chơi giả dối và mộng tưởng.
Lần này chúng ta đã đối diện với một nguy cơ chưa từng biết, dù nguy cơ ấy sinh ra từ một chất chúng ta đã và đang tạo ra trong hàng chục năm trời -một sản phẩm phụ trong quá trình sản xuất để chuyển bauxite sang alumina, để dùng tạo ra nhôm. Sợ hãi hoá thành giận dữ, và nhân dân đòi muốn biết sự thật.
Viện hàn lâm vội vã lấy mẫu mới. Mười ngày sau khi chất thải bắt đầu chảy tràn ra họ mới cho chúng ta biết rằng chất thải quả là độc, có chứa lượng thạch tín cao; khi nó khô, nó sẽ biến thành bụi độc.
Tin này thật chẳng an lòng, nhưng ít ra bây giờ chúng ta biết bùn đỏ thật sự đe doạ như thế nào. Tuy các viên chức chưa nghĩ ra chính xác cách nào để ngăn chặn và dọn sạch vụ tràn chất thải này, một đập phòng hộ mới bao quanh các làng đã chuẩn bị xong, và họ bảo chúng ta rằng chẳng bao lâu nhiều người sẽ có thể về nhà.
Tuy nhiên, rõ ràng thảm hoạ này đã buộc Hungary phải đánh giá lại di sản môi trường, thực tiễn trữ những chất thải công nghiệp độc hại trên khắp cả nước suốt hàng chục năm nay của mình. Bước kế tiếp là phải tìm ra một cách chính xác chất thải nào đang được trữ lại, ở đâu và trong điều kiện như thế nào. Hơn nữa, chúng ta còn phải tìm ra cách tốt nhất để loại bỏ hay kiểm soát được những chất này.
Sự đánh giá lại này nhất định phải là cuộc thảo luận chính trị liên quan không chỉ đến các nhà khoa học. Cuộc thảo luận phải bàn về chuyện tại sao chúng ta đã lại từng chấp nhận những mối đe doạ như thế đối với nhân dân dân và đối với môi trường, như thế có nghĩa là phải bàn cãi về quá khứ của chúng ta - một chủ đề nhiều người đang cầm quyền rất cố muốn tránh.
Cha vợ tôi nói với tôi rằng những người bạn làm rượu nho của ông đã bắt đầu xoá sạch những dấu bánh xe trên những con đường quanh Somlo. Ông nói, ô nhiễm chưa bao giờ chạm đến nguồn cung cấp nước. Từ phương bắc, cách núi lửa rất xa, gió thổi về nên những người làm rượu nho tin có thể cứu được vụ thu hoạch nho. Nhưng đó chỉ là điều duy nhất họ chắc chắn.
Tựa đề của người dịch. Nguên tác tiếng Anh " Seeing Red in Hungary"
Nguồn: New York Times số ra ngày 17 tháng Mười năm 2010
www.nytimes.com/2010/10/17/opinion/17Dragoman.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
2.10.10
ALEXANDER SOLZHENITSYN- NHỮNG NGƯỜI THUA NẶNG TRONG THẾ CHIẾN THỨ BA
talawas – Bài viết sau đây của Alexander Solzhenitsyn, đăng trên New York Times ngày 22/6/1975, không lâu sau khi ông phải dời bỏ Liên Xô sang tị nạn tại phương Tây, cho thấy cái nhìn khá bi quan và quan điểm không khoan nhượng của ông về sai lầm và trách nhiệm của phương Tây trước hiện trạng chính trị thế giới thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Việt Nam được nhiều lần nhắc đến trong bài viết này. Xin giới thiệu cùng độc giả.
________________
Trần Quốc Việt dịch
Paris - Khi Thế Chiến Thứ Nhất theo sát gót Thế Chiến Thứ Hai, câu hỏi ám ảnh mọi người là liệu Thế Chiến Thứ Ba có diễn ra tiếp theo. Bao nhiêu nhượng bộ và hy sinh người ta đã chấp nhận để trì hoãn cuộc thế chiến tương lai ấy, trong niềm mong mỏi may ra hoàn toàn tránh được nó?
Nhưng rất ít người chú ý, hay có can đảm thừa nhận, rằng Thế Chiến Thứ Ba đã diễn ra từ lâu và nó đã thành lịch sử rồi. Cuộc thế chiến ấy đã kết thúc trong năm nay với việc Thế Giới Tự Do bị thua nặng.
Thế Chiến Thứ Ba đã bắt đầu ngay theo sau Thế Chiến Thứ Hai: những hạt giống đã được gieo khi cuộc chiến tranh ấy vừa chấm dứt, và thế chiến mới đã xuất hiện lần đầu tiên ở ở Yalta năm 1945, khi những cây bút hèn nhát Roosevelt và Churchill, muốn mừng chiến thắng của họ bằng một loạt nhượng bộ, đã ký giao đứt Estonia, Latvia, Lithuania, Moldavia, Mongolia, đã kết án tử hình hay lưu đày hàng triệu công dân Xô Viết đến các trại tập trung, đã tạo ra Hội đồng Liên hiệp quốc bất tài, rồi cuối cùng bỏ rơi Nam Tư, Albania, Ba Lan, Bulgaria, Rumania, Tiệp Khắc, Hungary và Đông Đức.
Thế Chiến Thứ Ba đã mở đầu khác với hai cuộc thế chiến trước, không phải bằng trao đổi thư từ cắt đứt quan hệ, hay tấn công ồ ạt bằng máy bay. Thế Chiến Thứ Ba đã mở đầu một cách lén lút; nó luồn vào thế giới dưới những cái tên khác nhau: thay đổi “dân chủ” được 100 phần trăm dân chúng tán thành; Chiến tranh Lạnh; cùng tồn tại hoà bình; bình thường hoá quan hệ; chính trị thực tế; hoà hoãn, hay các hiệp ước thương mại chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng. Nhằm tránh cái tên Thế Chiến Thứ Ba bằng mọi giá, phương Tây đã chuẩn y nó, để mặc cho nó tàn phá và nô lệ hai mươi nước, và để mặc cho nó thay đổi diện mạo trái đất.
Khi xem xét cẩn thận, ta thấy ba mươi năm qua là sự suy tàn kéo dài, tuy gập ghềnh, của phương Tây – chỉ trượt dài, chỉ lao xuống, chỉ bạc nhược và sa đoạ. Trong suốt ba mươi năm hoà bình này các cường quốc thắng trận trong hai cuộc thế chiến đầu tiên đã chỉ toàn hướng đến sự yếu đuối, khi bỏ rơi đồng minh thực sự hay tương lai, khi làm tiêu tan đi sự khả tín của mình, khi từ bỏ bao lãnh thổ và dân số cho một kẻ thù không thể nào xoa dịu được: từ Trung Quốc bao la đông dân, đồng minh quan trọng nhất của họ trong Thế Chiến Thứ Hai, đến Bắc Hàn, Cuba, Bắc Việt Nam, và giờ đến Nam Việt Nam và Cambodia; Lào cũng sắp mất nốt; Thái Lan, Nam Hàn hiện bị đe doạ; Bồ Đào Nha đang lao xuống cùng vực thẳm. Phần Lan và Áo cam chịu đợi chờ số phận của họ, bất lực để bảo vệ mình và rõ ràng không có lý do gì để trông mong sự giúp đỡ từ nước ngoài.
Cũng chẳng thể nào kể ra hết tất cả các nước nhỏ ở Châu Phi và Ả Rập đã trở thành những chính quyền bù nhìn của chế độ cộng sản, cũng như rất nhiều nước khác, ngay cả tại Châu Âu, phải quy phục để tồn tại. Còn Liên hiệp quốc, một sự thất bại hoàn toàn, một thể chế dân chủ tồi tệ nhất trên thế giới, món đồ chơi vô trách nhiệm, đã trở thành diễn đàn để từ đấy chế giễu phương Tây, qua đó phản ánh sự sụp đổ quyền lực đớn đau của nó.
Vì thế, nếu những người chiến thắng bị biến thành những kẻ chiến bại khi giao nộp nhiều nước và nhiều dân tộc với số lượng còn hơn cả số luợng phải giao theo sau bất kỳ cuộc đầu hàng quân sự nào trong lịch sử, thì chẳng phải là hoa mỹ khi nói rằng Thế Chiến Thứ Ba đã diễn ra rồi và kết cục phương Tây bại trận.
Ngày nay, khi trận đánh kéo dài nhất và gay cấn nhất trong cuộc chiến tranh này, trận đánh Việt Nam, kết thúc đầy bi kịch bằng sự sát hại hàng ngàn người và giam cầm hàng triệu người khác, chúng ta vắt óc để tìm ra một cách vô vọng những lần khi phương Tây giữ vững được chiến tuyến của mình trong suốt ba mươi năm vừa qua.
Quả thật chúng ta có thể kể ra ba lần: Hy Lạp năm 1947, Tây Berlin năm 1948, và Nam Hàn năm 1950. Ba trường hợp này đã khích lệ lòng tin và hy vọng ở phương Tây. Nhưng hãy xem lại chúng trong bối cảnh hiện nay: trong ba nơi này liệu có nơi nào hôm nay có đủ sức mạnh để chống lại ách nô lệ? Ai sẽ bảo vệ họ khi họ bị đe doạ? Thượng viện nào sẽ phê chuẩn gởi vũ khí và viện trợ? Ai sẽ không thích sự thanh bình hơn tự do của họ? Phải chăng Liên minh Đại Tây Dương, sau khi đã mất bốn nước rồi, vẫn còn tồn tại? Khi Israel dũng cảm bảo vệ mình nhờ vào sự đoàn kết kiên cường, thì Châu Âu lại đầu hàng, hết nước này đến nước khác, trước sự đe dọa ít có dịp lái xe đưa gia đình đi chơi hơn vào những chiều Chủ Nhật.
Hai hay ba thập niên vinh quang của kiểu cùng tồn tại hoà bình này và chính khái niệm phương Tây rồi sẽ hoàn toàn biến mất.
Thế Chiến Thứ Ba diễn ra nhanh không ngờ tại nơi dễ tổn thương nhất của phương Tây, tức ao ước của con người muốn kéo dài sự thịnh vượng với cái giá của những nhượng bộ hão huyền. Điều này giải thích niềm hân hoan được thể hiện mỗi lần ký hiệp ước mới (như thể bất kỳ hiệp ước nào cũng luôn luôn được Liên Xô tôn trọng ngoại trừ khi nó phục vụ mục đích của họ.) Chẳng bao lâu, tại cuộc hội nghị an ninh 35 quốc gia Châu Âu, các nước Tây Âu sẽ xác nhận thân phận nô lệ mới của các nước huynh đệ ở phương Đông, trong khi đó vẫn tin tưởng họ đang tạo viễn cảnh xán lạn cho hoà bình.
Tôi đã mô tả hoàn cảnh mà người bình thường tại các nước phương Đông từ Poznan đến Quảng Đông ai cũng thấy rõ. Nhưng tinh thần phương Tây cần phải cứng rắn hơn rất nhiều và đôi mắt phương Tây đặc biệt phải cần tinh tường hơn để nhìn thấy và chấp nhận bằng chứng về sự khích động bạo lực và đổ máu có bài bản, liên tục, thành công trên khắp thế giới xuất phát từ một nguồn trong gần sáu mươi năm.
Họ chỉ cần xem bản đồ thế giới để thấy những nước nào đã bị đánh dấu sẵn cho cơn thảm sát kế tiếp.
Tất nhiên, không ai có quyền buộc phương Tây gánh vác trách nhiệm bảo vệ Malaysia, Indonesia, Đài Loan hay Phillipines; cũng không ai dám trách phương Tây không muốn làm như thế. Nhưng đối với những người trai trẻ đã từ chối chịu đựng đau đớn và gian nan của cuộc chiến tranh xa xăm tại Việt Nam, họ – chứ không phải con họ – phải đứng lên bảo vệ nước Mỹ trước khi họ qua độ tuổi quân dịch. Song đến lúc ấy đã quá muộn.
Giờ chẳng ích gì để hỏi làm sao ngăn ngừa Thế Chiến Thứ Ba. Chúng ta phải có can đảm và sáng suốt để chặn Thế Chiến Thứ Tư. Chúng ta phải chặn nó lại; chứ không phải quỳ xuống khi nó đến.
Nguồn: New York Times, số ra ngày 22 tháng Sáu năm 1975. Leonard Mayhew dịch sang tiếng Anh. http://graphics8.nytimes.com/packages/pdf/oped40/CONFLICTSolzhenitzyn.pdf
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
________________
Trần Quốc Việt dịch
Paris - Khi Thế Chiến Thứ Nhất theo sát gót Thế Chiến Thứ Hai, câu hỏi ám ảnh mọi người là liệu Thế Chiến Thứ Ba có diễn ra tiếp theo. Bao nhiêu nhượng bộ và hy sinh người ta đã chấp nhận để trì hoãn cuộc thế chiến tương lai ấy, trong niềm mong mỏi may ra hoàn toàn tránh được nó?
Nhưng rất ít người chú ý, hay có can đảm thừa nhận, rằng Thế Chiến Thứ Ba đã diễn ra từ lâu và nó đã thành lịch sử rồi. Cuộc thế chiến ấy đã kết thúc trong năm nay với việc Thế Giới Tự Do bị thua nặng.
Thế Chiến Thứ Ba đã bắt đầu ngay theo sau Thế Chiến Thứ Hai: những hạt giống đã được gieo khi cuộc chiến tranh ấy vừa chấm dứt, và thế chiến mới đã xuất hiện lần đầu tiên ở ở Yalta năm 1945, khi những cây bút hèn nhát Roosevelt và Churchill, muốn mừng chiến thắng của họ bằng một loạt nhượng bộ, đã ký giao đứt Estonia, Latvia, Lithuania, Moldavia, Mongolia, đã kết án tử hình hay lưu đày hàng triệu công dân Xô Viết đến các trại tập trung, đã tạo ra Hội đồng Liên hiệp quốc bất tài, rồi cuối cùng bỏ rơi Nam Tư, Albania, Ba Lan, Bulgaria, Rumania, Tiệp Khắc, Hungary và Đông Đức.
Thế Chiến Thứ Ba đã mở đầu khác với hai cuộc thế chiến trước, không phải bằng trao đổi thư từ cắt đứt quan hệ, hay tấn công ồ ạt bằng máy bay. Thế Chiến Thứ Ba đã mở đầu một cách lén lút; nó luồn vào thế giới dưới những cái tên khác nhau: thay đổi “dân chủ” được 100 phần trăm dân chúng tán thành; Chiến tranh Lạnh; cùng tồn tại hoà bình; bình thường hoá quan hệ; chính trị thực tế; hoà hoãn, hay các hiệp ước thương mại chỉ có lợi cho kẻ xâm lăng. Nhằm tránh cái tên Thế Chiến Thứ Ba bằng mọi giá, phương Tây đã chuẩn y nó, để mặc cho nó tàn phá và nô lệ hai mươi nước, và để mặc cho nó thay đổi diện mạo trái đất.
Khi xem xét cẩn thận, ta thấy ba mươi năm qua là sự suy tàn kéo dài, tuy gập ghềnh, của phương Tây – chỉ trượt dài, chỉ lao xuống, chỉ bạc nhược và sa đoạ. Trong suốt ba mươi năm hoà bình này các cường quốc thắng trận trong hai cuộc thế chiến đầu tiên đã chỉ toàn hướng đến sự yếu đuối, khi bỏ rơi đồng minh thực sự hay tương lai, khi làm tiêu tan đi sự khả tín của mình, khi từ bỏ bao lãnh thổ và dân số cho một kẻ thù không thể nào xoa dịu được: từ Trung Quốc bao la đông dân, đồng minh quan trọng nhất của họ trong Thế Chiến Thứ Hai, đến Bắc Hàn, Cuba, Bắc Việt Nam, và giờ đến Nam Việt Nam và Cambodia; Lào cũng sắp mất nốt; Thái Lan, Nam Hàn hiện bị đe doạ; Bồ Đào Nha đang lao xuống cùng vực thẳm. Phần Lan và Áo cam chịu đợi chờ số phận của họ, bất lực để bảo vệ mình và rõ ràng không có lý do gì để trông mong sự giúp đỡ từ nước ngoài.
Cũng chẳng thể nào kể ra hết tất cả các nước nhỏ ở Châu Phi và Ả Rập đã trở thành những chính quyền bù nhìn của chế độ cộng sản, cũng như rất nhiều nước khác, ngay cả tại Châu Âu, phải quy phục để tồn tại. Còn Liên hiệp quốc, một sự thất bại hoàn toàn, một thể chế dân chủ tồi tệ nhất trên thế giới, món đồ chơi vô trách nhiệm, đã trở thành diễn đàn để từ đấy chế giễu phương Tây, qua đó phản ánh sự sụp đổ quyền lực đớn đau của nó.
Vì thế, nếu những người chiến thắng bị biến thành những kẻ chiến bại khi giao nộp nhiều nước và nhiều dân tộc với số lượng còn hơn cả số luợng phải giao theo sau bất kỳ cuộc đầu hàng quân sự nào trong lịch sử, thì chẳng phải là hoa mỹ khi nói rằng Thế Chiến Thứ Ba đã diễn ra rồi và kết cục phương Tây bại trận.
Ngày nay, khi trận đánh kéo dài nhất và gay cấn nhất trong cuộc chiến tranh này, trận đánh Việt Nam, kết thúc đầy bi kịch bằng sự sát hại hàng ngàn người và giam cầm hàng triệu người khác, chúng ta vắt óc để tìm ra một cách vô vọng những lần khi phương Tây giữ vững được chiến tuyến của mình trong suốt ba mươi năm vừa qua.
Quả thật chúng ta có thể kể ra ba lần: Hy Lạp năm 1947, Tây Berlin năm 1948, và Nam Hàn năm 1950. Ba trường hợp này đã khích lệ lòng tin và hy vọng ở phương Tây. Nhưng hãy xem lại chúng trong bối cảnh hiện nay: trong ba nơi này liệu có nơi nào hôm nay có đủ sức mạnh để chống lại ách nô lệ? Ai sẽ bảo vệ họ khi họ bị đe doạ? Thượng viện nào sẽ phê chuẩn gởi vũ khí và viện trợ? Ai sẽ không thích sự thanh bình hơn tự do của họ? Phải chăng Liên minh Đại Tây Dương, sau khi đã mất bốn nước rồi, vẫn còn tồn tại? Khi Israel dũng cảm bảo vệ mình nhờ vào sự đoàn kết kiên cường, thì Châu Âu lại đầu hàng, hết nước này đến nước khác, trước sự đe dọa ít có dịp lái xe đưa gia đình đi chơi hơn vào những chiều Chủ Nhật.
Hai hay ba thập niên vinh quang của kiểu cùng tồn tại hoà bình này và chính khái niệm phương Tây rồi sẽ hoàn toàn biến mất.
Thế Chiến Thứ Ba diễn ra nhanh không ngờ tại nơi dễ tổn thương nhất của phương Tây, tức ao ước của con người muốn kéo dài sự thịnh vượng với cái giá của những nhượng bộ hão huyền. Điều này giải thích niềm hân hoan được thể hiện mỗi lần ký hiệp ước mới (như thể bất kỳ hiệp ước nào cũng luôn luôn được Liên Xô tôn trọng ngoại trừ khi nó phục vụ mục đích của họ.) Chẳng bao lâu, tại cuộc hội nghị an ninh 35 quốc gia Châu Âu, các nước Tây Âu sẽ xác nhận thân phận nô lệ mới của các nước huynh đệ ở phương Đông, trong khi đó vẫn tin tưởng họ đang tạo viễn cảnh xán lạn cho hoà bình.
Tôi đã mô tả hoàn cảnh mà người bình thường tại các nước phương Đông từ Poznan đến Quảng Đông ai cũng thấy rõ. Nhưng tinh thần phương Tây cần phải cứng rắn hơn rất nhiều và đôi mắt phương Tây đặc biệt phải cần tinh tường hơn để nhìn thấy và chấp nhận bằng chứng về sự khích động bạo lực và đổ máu có bài bản, liên tục, thành công trên khắp thế giới xuất phát từ một nguồn trong gần sáu mươi năm.
Họ chỉ cần xem bản đồ thế giới để thấy những nước nào đã bị đánh dấu sẵn cho cơn thảm sát kế tiếp.
Tất nhiên, không ai có quyền buộc phương Tây gánh vác trách nhiệm bảo vệ Malaysia, Indonesia, Đài Loan hay Phillipines; cũng không ai dám trách phương Tây không muốn làm như thế. Nhưng đối với những người trai trẻ đã từ chối chịu đựng đau đớn và gian nan của cuộc chiến tranh xa xăm tại Việt Nam, họ – chứ không phải con họ – phải đứng lên bảo vệ nước Mỹ trước khi họ qua độ tuổi quân dịch. Song đến lúc ấy đã quá muộn.
Giờ chẳng ích gì để hỏi làm sao ngăn ngừa Thế Chiến Thứ Ba. Chúng ta phải có can đảm và sáng suốt để chặn Thế Chiến Thứ Tư. Chúng ta phải chặn nó lại; chứ không phải quỳ xuống khi nó đến.
Nguồn: New York Times, số ra ngày 22 tháng Sáu năm 1975. Leonard Mayhew dịch sang tiếng Anh. http://graphics8.nytimes.com/packages/pdf/oped40/CONFLICTSolzhenitzyn.pdf
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
29.9.10
GUY SORMAN- NUREMBERG CỦA CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN
Trần Quốc Việt dịch
Bốn nhà lãnh đạo còn sống của chế độ Khmer Đỏ, trong đó có cựu chủ tịch nước Khieu Samphan, hiện đang bị giam ở Phnom Penh kể từ năm 2007 và sẽ bị đưa ra trước công lý tại nước họ. Vào ngày 16 tháng Chín, toà án Cambodia được Liên Hiệp Quốc bảo trợ đã truy tố họ về tội diệt chủng, tội ác chống lại nhân loại, và các tội danh khác. Toà án này đã xác lập sự khả tín của mình qua vụ xử đầu tiên: mới ngày 26 tháng Bảy vừa qua, toà đã kết án Kaing Guek Eav (tên thường gọi là Duch), một con vít nhỏ trong guồng máy diệt chủng của Khmer Đỏ. Duch chỉ huy một trung tâm tra tấn từ năm 1975 đến 1979 nơi con số nạn nhân lên đến 15.000 người. Khác với toà án Nuremberg năm 1945 xét xử các nhà lãnh đạo Quốc xã, toà án Phnom Penh không phải do các cường quốc thắng trận lập ra; toà hoạt động trong khuôn khổ hệ thống tư pháp Cambodia, được duy trì nhờ công luận Cambodia, tuy được Liên hiệp Quốc tài trợ. Tính chính danh và mục tiêu của toà án không có gì đáng chê trách. Tuy nhiên, xét theo mức độ tội ác của ông, dân chúng Cambodia nhận thấy bản án của Dutch chưa thoả đáng. Bị cáo rõ ràng đã thuyết phục được toà án rằng ông chỉ vâng lệnh cấp trên của mình- vẫn cùng cái cớ các nhà lãnh đạo Quốc xã đã trình bày trước toà án Nuremberg.
Trên báo chí Tây phương và Châu Á, cũng như qua các lời tuyên bố của nhiều chính phủ, rõ ràng người ta đang cố gắng giảm nhẹ tội ác của Duch và Khieu Samphan xuống thành những vấn đề thuộc về hoàn cảnh địa phương. Làm như thể có một tai ương không may mang tên “Khmer Đỏ” đã vô tình giáng xuống Cambodia trong năm 1975, qua đó cướp đi sinh mạng của 1.5 triệu người Khmer. Nhưng ai hay điều gì ở đằng sau điều mà toà án gọi là nạn diệt chủng người Khmer do những người Khmer khác gây nên? Biết đâu điều này là lỗi tại Hoa Kỳ? Hay phải chăng vì người Mỹ, do dựng nên một chính quyền theo ý muốn của họ, nên đã tạo ra một phong trào cực đoan (reaction) dân tộc? Hay biết đâu cơn diệt chủng này là một di sản văn hoá, là đặc trưng của nền văn minh Khmer? Các nhà khảo cổ đang xới tung cả quá khứ lên để cố tìm ra một cách vô vọng một tiền lệ lịch sử. Ta có thể tìm thấy lời giải thích đúng, tức ý nghĩa của tội ác, trong những tuyên bố của chính Khmer Đỏ: giống như Hitler từng mô tả trước tội ác của mình, Pol Pot (mất năm 1998) đã giải thích từ rất sớm rằng ông sẽ huỷ diệt nhân dân của ông, để tạo ra một nhân dân mới. Pol Pot xem mình là người cộng sản; ông trở thành người cộng sản vào thập niên 1960 khi đang theo học tại Paris, cái nôi của chủ nghĩa Marx thời đó. Vì Pol Pot và những nhà lãnh đạo của chế độ mà ông đã áp đặt lên nhân dân ông tự xem mình là những người cộng sản – chứ không bao giờ tuyên bố là những người kế thừa của triều đại Cambodia nào đấy – nên chúng ta phải công nhận rằng chính họ thật sự là những người cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản Khmer Đỏ mang đến cho Cambodia quả là chủ nghĩa cộng sản đích thực. Xét về mặt khái niệm hay cụ thể, không có sự khác biệt cơ bản nào giữa ách cai trị của Khmer Đỏ với ách cai trị của chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Castro, hay chế độ Bắc Hàn. Tất cả các chế độ cộng sản đều theo một quỹ đạo giống nhau một cách kỳ lạ, hiếm khi chịu ảnh hưởng của truyền thống địa phương. Trong mỗi trường hợp, những chế độ này tìm cách làm lại từ đầu quá khứ và tạo ra con người mới. Trong mỗi trường hợp, người “giàu”, trí thức, và những ai hoài nghi cuối cùng rồi bị tận diệt. Khmer Đỏ lùa dân chúng ở thành phố và miền quê vào các công xã nông nghiệp dựa theo các tiền lệ của cả Nga (nông trường tập thể) và Trung Quốc (công xã nhân dân), và họ hành động vì cùng các lý do ý thức hệ giống nhau, rồi cuối cùng dẫn đến kết cục như nhau: đói kém. Không có những điều như chủ nghĩa cộng sản đích thực nếu không có thảm sát, tra tấn, trại tập trung, quần đảo ngục tù, hay trại lao động cải tạo. Cho nên nếu không bao giờ có chủ nghĩa cộng sản đích thực, thì chúng ta phải kết luận rằng không thể có bất kỳ kết quả nào khác được: ý thức hệ cộng sản tất yếu dẫn đến bạo lực tập thể, vì tập thể không muốn chủ nghĩa cộng sản đích thực. Lời khẳng định này đúng trên đồng ruộng Cambodia cũng như trên đồng bằng Ukrain hay dưới tán cây cọ Cuba.
Như thế, phiên toà xử Duch và rồi cuối cùng phiên toà xử Lũ Bốn Tên là những phiên toà đầu tiên, trên cơ sở nhân quyền, xử những viên chức Mác-xít của chế độ chính thức dù theo chủ nghĩa Marx, Lenin, hay Mao. Phiên toà xử chủ nghĩa Quốc xã diễn ra tại Nuremberg khởi đầu vào cuối năm 1945, và tiếp đến phiên toà xử chủ nghĩa Phát xít tại Tokyo năm sau. Nhưng mãi cho đến bây giờ, chúng ta chưa có phiên toà nào xử chủ nghĩa cộng sản, mặc dù chủ nghĩa cộng sản đích thực đã giết chết hay gây tàn phế cho số nạn nhân còn nhiều hơn tổng số nạn nhân của chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Phát xít cộng lại. Phiên toà xử chủ nghĩa cộng sản chưa bao giờ diễn ra, ngoại trừ trên lĩnh vực trí thức, vì hai lý do. Thứ nhất, chủ nghĩa cộng sản ít nhiều hưởng được sự miễn tội ý thức hệ vì nó tuyên bố đứng về phía tiến bộ. Thứ hai, chủ nghĩa cộng sản vẫn còn nắm quyền ở Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, Hà Nội, và Havana. Còn tại những nơi họ đã mất hết quyền lực, như ở Liên Xô cũ, những người cộng sản đã tìm được cách thoát tội nhờ hoá thân thành những nhà dân chủ xã hội, những doanh nhân, hay những nhà lãnh đạo dân tộc.
Phiên toà xử chủ nghĩa cộng sản duy nhất hiện nay có thể thực hiện được và mang lại kết quả vì thế phải diễn ra tại Cambodia. Nhưng chúng ta không được nhầm lẫn: đây không đơn thuần là phiên toà giữa người Cambodia với nhau. Trong phiên toà ở Phnom Penh, chủ nghĩa cộng sản đích thực đối mặt với những nạn nhân của nó. Phiên toà không những phơi bày chủ nghĩa Marx thủ đoạn như thế nào để thâu tóm, cướp đoạt, và thực thi quyền lực theo cách tuyệt đối, mà còn phơi bày một đặc trưng kỳ lạ của chủ nghĩa Marx đích thực. Giờ dường như chẳng có ai, ngay cả những cựu lãnh đạo cộng sản, muốn giành tiếp nhận vương trượng truyền lại của chủ nghĩa Marx. Khmer Đỏ giết người nhân danh Marx, nhân danh Lenin, và nhân danh Mao, nhưng họ thích chết như là những kẻ phản bội cho chính sự nghiệp họ từng đeo đuổi hay thích trốn chạy. Sự hèn nhát này chiếu một luồng ánh sáng mới vào chủ nghĩa Marx: chủ nghĩa Marx là thực, nhưng nó không thật, vì không có ai tin nó.
Guy Sormanlà trí thức hàng đầu Pháp, hiện là biên tập viên tạp chí City Journal, tác giả của hơn 20 cuốn sách bàn về các vấn để quốc tế và đương thời. Ông từng là cố vấn cho thủ tướng Pháp (1995-1997). Tác phẩm đáng chú nhất gần đây của ông là Đế quốc nói láo: Sự thật về Trung Quốc trong thế kỷ hai muơi mốt.
Nguồn: Tạp chí City Journal số 26 tháng Chín năm 2010. Bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh của Alexis Cornel. (“Communism’s Nuremberg”).
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Bốn nhà lãnh đạo còn sống của chế độ Khmer Đỏ, trong đó có cựu chủ tịch nước Khieu Samphan, hiện đang bị giam ở Phnom Penh kể từ năm 2007 và sẽ bị đưa ra trước công lý tại nước họ. Vào ngày 16 tháng Chín, toà án Cambodia được Liên Hiệp Quốc bảo trợ đã truy tố họ về tội diệt chủng, tội ác chống lại nhân loại, và các tội danh khác. Toà án này đã xác lập sự khả tín của mình qua vụ xử đầu tiên: mới ngày 26 tháng Bảy vừa qua, toà đã kết án Kaing Guek Eav (tên thường gọi là Duch), một con vít nhỏ trong guồng máy diệt chủng của Khmer Đỏ. Duch chỉ huy một trung tâm tra tấn từ năm 1975 đến 1979 nơi con số nạn nhân lên đến 15.000 người. Khác với toà án Nuremberg năm 1945 xét xử các nhà lãnh đạo Quốc xã, toà án Phnom Penh không phải do các cường quốc thắng trận lập ra; toà hoạt động trong khuôn khổ hệ thống tư pháp Cambodia, được duy trì nhờ công luận Cambodia, tuy được Liên hiệp Quốc tài trợ. Tính chính danh và mục tiêu của toà án không có gì đáng chê trách. Tuy nhiên, xét theo mức độ tội ác của ông, dân chúng Cambodia nhận thấy bản án của Dutch chưa thoả đáng. Bị cáo rõ ràng đã thuyết phục được toà án rằng ông chỉ vâng lệnh cấp trên của mình- vẫn cùng cái cớ các nhà lãnh đạo Quốc xã đã trình bày trước toà án Nuremberg.
Trên báo chí Tây phương và Châu Á, cũng như qua các lời tuyên bố của nhiều chính phủ, rõ ràng người ta đang cố gắng giảm nhẹ tội ác của Duch và Khieu Samphan xuống thành những vấn đề thuộc về hoàn cảnh địa phương. Làm như thể có một tai ương không may mang tên “Khmer Đỏ” đã vô tình giáng xuống Cambodia trong năm 1975, qua đó cướp đi sinh mạng của 1.5 triệu người Khmer. Nhưng ai hay điều gì ở đằng sau điều mà toà án gọi là nạn diệt chủng người Khmer do những người Khmer khác gây nên? Biết đâu điều này là lỗi tại Hoa Kỳ? Hay phải chăng vì người Mỹ, do dựng nên một chính quyền theo ý muốn của họ, nên đã tạo ra một phong trào cực đoan (reaction) dân tộc? Hay biết đâu cơn diệt chủng này là một di sản văn hoá, là đặc trưng của nền văn minh Khmer? Các nhà khảo cổ đang xới tung cả quá khứ lên để cố tìm ra một cách vô vọng một tiền lệ lịch sử. Ta có thể tìm thấy lời giải thích đúng, tức ý nghĩa của tội ác, trong những tuyên bố của chính Khmer Đỏ: giống như Hitler từng mô tả trước tội ác của mình, Pol Pot (mất năm 1998) đã giải thích từ rất sớm rằng ông sẽ huỷ diệt nhân dân của ông, để tạo ra một nhân dân mới. Pol Pot xem mình là người cộng sản; ông trở thành người cộng sản vào thập niên 1960 khi đang theo học tại Paris, cái nôi của chủ nghĩa Marx thời đó. Vì Pol Pot và những nhà lãnh đạo của chế độ mà ông đã áp đặt lên nhân dân ông tự xem mình là những người cộng sản – chứ không bao giờ tuyên bố là những người kế thừa của triều đại Cambodia nào đấy – nên chúng ta phải công nhận rằng chính họ thật sự là những người cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản Khmer Đỏ mang đến cho Cambodia quả là chủ nghĩa cộng sản đích thực. Xét về mặt khái niệm hay cụ thể, không có sự khác biệt cơ bản nào giữa ách cai trị của Khmer Đỏ với ách cai trị của chủ nghĩa Stalin, chủ nghĩa Mao, chủ nghĩa Castro, hay chế độ Bắc Hàn. Tất cả các chế độ cộng sản đều theo một quỹ đạo giống nhau một cách kỳ lạ, hiếm khi chịu ảnh hưởng của truyền thống địa phương. Trong mỗi trường hợp, những chế độ này tìm cách làm lại từ đầu quá khứ và tạo ra con người mới. Trong mỗi trường hợp, người “giàu”, trí thức, và những ai hoài nghi cuối cùng rồi bị tận diệt. Khmer Đỏ lùa dân chúng ở thành phố và miền quê vào các công xã nông nghiệp dựa theo các tiền lệ của cả Nga (nông trường tập thể) và Trung Quốc (công xã nhân dân), và họ hành động vì cùng các lý do ý thức hệ giống nhau, rồi cuối cùng dẫn đến kết cục như nhau: đói kém. Không có những điều như chủ nghĩa cộng sản đích thực nếu không có thảm sát, tra tấn, trại tập trung, quần đảo ngục tù, hay trại lao động cải tạo. Cho nên nếu không bao giờ có chủ nghĩa cộng sản đích thực, thì chúng ta phải kết luận rằng không thể có bất kỳ kết quả nào khác được: ý thức hệ cộng sản tất yếu dẫn đến bạo lực tập thể, vì tập thể không muốn chủ nghĩa cộng sản đích thực. Lời khẳng định này đúng trên đồng ruộng Cambodia cũng như trên đồng bằng Ukrain hay dưới tán cây cọ Cuba.
Như thế, phiên toà xử Duch và rồi cuối cùng phiên toà xử Lũ Bốn Tên là những phiên toà đầu tiên, trên cơ sở nhân quyền, xử những viên chức Mác-xít của chế độ chính thức dù theo chủ nghĩa Marx, Lenin, hay Mao. Phiên toà xử chủ nghĩa Quốc xã diễn ra tại Nuremberg khởi đầu vào cuối năm 1945, và tiếp đến phiên toà xử chủ nghĩa Phát xít tại Tokyo năm sau. Nhưng mãi cho đến bây giờ, chúng ta chưa có phiên toà nào xử chủ nghĩa cộng sản, mặc dù chủ nghĩa cộng sản đích thực đã giết chết hay gây tàn phế cho số nạn nhân còn nhiều hơn tổng số nạn nhân của chủ nghĩa Quốc xã và chủ nghĩa Phát xít cộng lại. Phiên toà xử chủ nghĩa cộng sản chưa bao giờ diễn ra, ngoại trừ trên lĩnh vực trí thức, vì hai lý do. Thứ nhất, chủ nghĩa cộng sản ít nhiều hưởng được sự miễn tội ý thức hệ vì nó tuyên bố đứng về phía tiến bộ. Thứ hai, chủ nghĩa cộng sản vẫn còn nắm quyền ở Bắc Kinh, Bình Nhưỡng, Hà Nội, và Havana. Còn tại những nơi họ đã mất hết quyền lực, như ở Liên Xô cũ, những người cộng sản đã tìm được cách thoát tội nhờ hoá thân thành những nhà dân chủ xã hội, những doanh nhân, hay những nhà lãnh đạo dân tộc.
Phiên toà xử chủ nghĩa cộng sản duy nhất hiện nay có thể thực hiện được và mang lại kết quả vì thế phải diễn ra tại Cambodia. Nhưng chúng ta không được nhầm lẫn: đây không đơn thuần là phiên toà giữa người Cambodia với nhau. Trong phiên toà ở Phnom Penh, chủ nghĩa cộng sản đích thực đối mặt với những nạn nhân của nó. Phiên toà không những phơi bày chủ nghĩa Marx thủ đoạn như thế nào để thâu tóm, cướp đoạt, và thực thi quyền lực theo cách tuyệt đối, mà còn phơi bày một đặc trưng kỳ lạ của chủ nghĩa Marx đích thực. Giờ dường như chẳng có ai, ngay cả những cựu lãnh đạo cộng sản, muốn giành tiếp nhận vương trượng truyền lại của chủ nghĩa Marx. Khmer Đỏ giết người nhân danh Marx, nhân danh Lenin, và nhân danh Mao, nhưng họ thích chết như là những kẻ phản bội cho chính sự nghiệp họ từng đeo đuổi hay thích trốn chạy. Sự hèn nhát này chiếu một luồng ánh sáng mới vào chủ nghĩa Marx: chủ nghĩa Marx là thực, nhưng nó không thật, vì không có ai tin nó.
Guy Sormanlà trí thức hàng đầu Pháp, hiện là biên tập viên tạp chí City Journal, tác giả của hơn 20 cuốn sách bàn về các vấn để quốc tế và đương thời. Ông từng là cố vấn cho thủ tướng Pháp (1995-1997). Tác phẩm đáng chú nhất gần đây của ông là Đế quốc nói láo: Sự thật về Trung Quốc trong thế kỷ hai muơi mốt.
Nguồn: Tạp chí City Journal số 26 tháng Chín năm 2010. Bản dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Anh của Alexis Cornel. (“Communism’s Nuremberg”).
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
20.9.10
GEORGE F. WILL- BÓNG ĐÈN CUỐI CÙNG SÁNG TRÊN ĐẦU CASTRO
Trần Quốc Việt dịch
Washington – Fidel Castro, 84 tuổi, mắt mũi có thể bị kèm nhem, nhưng ông đã nhận thấy một điều: “Mô hình Cuba đối với chúng tôi thật ra không còn thành công nữa.” Thế là bí mật thành bật mí. Nghe tin, những khách quen cũ ngày xưa vào thời vàng son của Les Deux Magots, giờ nếu vẫn còn sống, chắc cũng chẳng lấy làm vui.
Quán cà phê đó ở Paris, giờ thành địa điểm thu hút du khách, ngày xưa là nơi trước và sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II Jean-Paul Sartre và những người cùng tư tưởng đã bàn về sự vô nghĩa của cuộc đời và hiểm họa Mỹ. Về mối hiểm hoạ này, tờ báo chính, tờ Le Monde, viết trong bài xã luận vào ngày 29 tháng Ba năm 1950: “Coca-Cola là Danzig của Văn hoá Châu Âu”. (Xin nhắc lại lịch sử xưa: Danzig là thành phố của Ba Lan, nhưng Đức nghĩ là của Đức, nơi châm ngòi cho cuộc thế chiến.)
Đối với những người có tư tưởng cấp tiến, Castro là người loan tin mừng về “dân chủ trực tiếp” cùng với bao nhiêu điều khác. Ông lên nắm quyền vào ngày 1 tháng Giêng năm 1959, và năm sau Sartre đến tận nơi để giải thích Ý nghĩa của Sự kiện theo cách của các trí thức Paris.
Giống như bao kẻ đắm mình trong bầu không khí trí thức thời ấy – những sinh viên mặc áo len che kín cổ, những người hâm mộ phim nước ngoài (nhưng làm ơn đừng có “phim Mỹ”) – Sartre là người theo chủ nghĩa hiện sinh. Có nhà phê bình đã gọi chủ nghĩa hiện sinh là niềm tin rằng vì cuộc đời là vô nghĩa, triết học cũng nên vô nghĩa theo. Nhưng bước chân hành hương của Sartre đã đưa ông cùng với Castro vào miền quê của Cuba. Ở đấy họ dừng lại ở một cửa hàng bên đường để uống nước chanh rồi bất chợt ngộ ra chân lý.
Nước chanh ấm, nên Castro nổi nóng liền bảo chị bán hàng rằng cái thứ nước chanh chẳng ra gì này “bộc lộ sự thiếu ý thức cách mạng.” Chị đáp do tủ lạnh bị hư. Castro “gằn giọng” (theo lời kể đắc ý của Sartre) nói chị ta nên “bảo với người phụ trách cửa hàng của đồng chí rằng nếu họ không giải quyết cho xong chuyện này, họ chắc chắn sẽ có chuyện với tôi.” Ngay lập tức Sartre hiểu ra “điều tôi gọi là ‘dân chủ trực tiếp’”: “Tuy không nói ra, giữa chị bán hàng và Castro đã có một sự đồng cảm tức thì. Qua giọng nói, qua những nụ cười, và qua cái nhún vai của chị ta thấy chị không có ảo tưởng.”
Nửa thế kỷ sau, Castro dường như đã đuổi kịp chị. Người đã tuyên bố trong phiên toà vào năm 1953 rằng “Lịch sử sẽ xoá án cho tôi” cuối cùng có thể mất đi ảo tưởng có tính chất huỷ diệt nhất của nền chính trị hiện đại, ý tưởng cho rằng Lịch sử là một danh từ riêng.
Ý tưởng cho rằng Lịch sử là một hoàn cảnh (thing) độc lập có một logic mở rộng, mà nếu được những người tiên phong của một thiểu số sáng suốt thấu hiểu được cơ chế của nó tác động đến, tất sẽ cuối cùng đưa đến thiên đường như hoạch định. Cho nên, theo Czelaw Milosz viết trong tác phẩm Tâm hồn Tù hãm (The Captive Mind) vào năm 1953, những người cộng sản tin rằng nhiệm vụ của trí thức không phải là suy nghĩ mà chỉ để hiểu.
Qua những lời ông phát biểu gần đây về “mô hình Cuba” (ông nói điều này với Jeffrey Goldberg của tờ Atlantic), Castro dường như đã trở thành người cuối cùng bên ngoài chế độ Bắc Hàn hiểu được nhà nước độc tài bóp nghẹt xã hội như thế nào. Từ đấy kế hoạch của chính quyền Cuba là sa thải 500.000 nhân viên nhà nước.
Điều này theo sau một vài biện pháp khác, chẳng hạn phi quốc hữu hoá các tiệm thẩm mỹ và tiệm cắt tóc nếu những tiệm này không có hơn ba ghế. Còn có bốn ghế trở lên, chúng vẫn là các xí nghiệp quốc doanh. Những “cải cách” như thế dưới chủ nghĩa xã hội tại một nước vào năm 1959, dựa trên nhiều dấu chỉ khác nhau về xã hội và kinh tế, là một trong năm nước tiên tiến nhất của Châu Mỹ La tinh, nhưng giờ đây lương trung bình chỉ độ khoảng 20 Mỹ kim. Nhiều bệnh nhân nhập viện phải mang theo khăn trải giường riêng. Hàng ngàn bác sĩ đang làm việc ở Venezuela để nuôi Cuba như Liên Xô ngày xưa từng cưu mang.
Sau cuộc đổ bộ Vịnh Con Heo vào tháng Tư năm 1961- có lẽ đây là việc sử dụng vô ích nhất sức mạnh Mỹ từ xưa đến nay- Robert bào đệ của tổng thống Kennedy gọi Cuba là “ưu tiên hàng đầu của chính phủ Hoa Kỳ -tất cả những điều khác đều là phụ – do đó không ngại tốn kém thời gian, tiền bạc, hay nhân lực.” Kể từ đấy, bao ngôn từ đanh thép đều được cả hai đảng dùng đến để giành lá phiếu của cộng đồng lưu vong 1.6 triệu người Cuba tại Mỹ, đặc biệt ở Florida, tiểu bang lớn nhất quyết định kết quả cuộc bầu cử tổng thống. Ví dụ, vào năm 1992, ứng cử viên tổng thống Bill Clinton hứa hẹn sẽ “giáng búa xuống” đầu Castro, người vẫn sống sót dù không được lòng của 11 đời tổng thống Mỹ.
Ngày nay, chính sách cô lập Cuba của Mỹ qua cấm vận kinh tế và hạn chế du lịch phục vụ hai mục tiêu của Castro: nó tạo ra sự ngoại phạm cho điều kiện xã hội của Cuba, và nó tránh cho Cuba khỏi tác động của một số lực lượng văn hoá và chính trị làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Vị tổng thống thứ 11, Barack Obama, sinh ra hơn hai năm sau khi Castro tiếm quyền, có lẽ nên nghĩ lại chính sách cấm vận này, dù sao ngay cả đến Castro cũng xét lại những nền tảng căn bản nhất.
George F. Will là nhà bình luận Mỹ nổi tiếng. Tựa đề từ một tờ báo khác.
Nguồn: “Cuba’s Castro learns what most of us already knew” Washington Post, 17/9/2010
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Washington – Fidel Castro, 84 tuổi, mắt mũi có thể bị kèm nhem, nhưng ông đã nhận thấy một điều: “Mô hình Cuba đối với chúng tôi thật ra không còn thành công nữa.” Thế là bí mật thành bật mí. Nghe tin, những khách quen cũ ngày xưa vào thời vàng son của Les Deux Magots, giờ nếu vẫn còn sống, chắc cũng chẳng lấy làm vui.
Quán cà phê đó ở Paris, giờ thành địa điểm thu hút du khách, ngày xưa là nơi trước và sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II Jean-Paul Sartre và những người cùng tư tưởng đã bàn về sự vô nghĩa của cuộc đời và hiểm họa Mỹ. Về mối hiểm hoạ này, tờ báo chính, tờ Le Monde, viết trong bài xã luận vào ngày 29 tháng Ba năm 1950: “Coca-Cola là Danzig của Văn hoá Châu Âu”. (Xin nhắc lại lịch sử xưa: Danzig là thành phố của Ba Lan, nhưng Đức nghĩ là của Đức, nơi châm ngòi cho cuộc thế chiến.)
Đối với những người có tư tưởng cấp tiến, Castro là người loan tin mừng về “dân chủ trực tiếp” cùng với bao nhiêu điều khác. Ông lên nắm quyền vào ngày 1 tháng Giêng năm 1959, và năm sau Sartre đến tận nơi để giải thích Ý nghĩa của Sự kiện theo cách của các trí thức Paris.
Giống như bao kẻ đắm mình trong bầu không khí trí thức thời ấy – những sinh viên mặc áo len che kín cổ, những người hâm mộ phim nước ngoài (nhưng làm ơn đừng có “phim Mỹ”) – Sartre là người theo chủ nghĩa hiện sinh. Có nhà phê bình đã gọi chủ nghĩa hiện sinh là niềm tin rằng vì cuộc đời là vô nghĩa, triết học cũng nên vô nghĩa theo. Nhưng bước chân hành hương của Sartre đã đưa ông cùng với Castro vào miền quê của Cuba. Ở đấy họ dừng lại ở một cửa hàng bên đường để uống nước chanh rồi bất chợt ngộ ra chân lý.
Nước chanh ấm, nên Castro nổi nóng liền bảo chị bán hàng rằng cái thứ nước chanh chẳng ra gì này “bộc lộ sự thiếu ý thức cách mạng.” Chị đáp do tủ lạnh bị hư. Castro “gằn giọng” (theo lời kể đắc ý của Sartre) nói chị ta nên “bảo với người phụ trách cửa hàng của đồng chí rằng nếu họ không giải quyết cho xong chuyện này, họ chắc chắn sẽ có chuyện với tôi.” Ngay lập tức Sartre hiểu ra “điều tôi gọi là ‘dân chủ trực tiếp’”: “Tuy không nói ra, giữa chị bán hàng và Castro đã có một sự đồng cảm tức thì. Qua giọng nói, qua những nụ cười, và qua cái nhún vai của chị ta thấy chị không có ảo tưởng.”
Nửa thế kỷ sau, Castro dường như đã đuổi kịp chị. Người đã tuyên bố trong phiên toà vào năm 1953 rằng “Lịch sử sẽ xoá án cho tôi” cuối cùng có thể mất đi ảo tưởng có tính chất huỷ diệt nhất của nền chính trị hiện đại, ý tưởng cho rằng Lịch sử là một danh từ riêng.
Ý tưởng cho rằng Lịch sử là một hoàn cảnh (thing) độc lập có một logic mở rộng, mà nếu được những người tiên phong của một thiểu số sáng suốt thấu hiểu được cơ chế của nó tác động đến, tất sẽ cuối cùng đưa đến thiên đường như hoạch định. Cho nên, theo Czelaw Milosz viết trong tác phẩm Tâm hồn Tù hãm (The Captive Mind) vào năm 1953, những người cộng sản tin rằng nhiệm vụ của trí thức không phải là suy nghĩ mà chỉ để hiểu.
Qua những lời ông phát biểu gần đây về “mô hình Cuba” (ông nói điều này với Jeffrey Goldberg của tờ Atlantic), Castro dường như đã trở thành người cuối cùng bên ngoài chế độ Bắc Hàn hiểu được nhà nước độc tài bóp nghẹt xã hội như thế nào. Từ đấy kế hoạch của chính quyền Cuba là sa thải 500.000 nhân viên nhà nước.
Điều này theo sau một vài biện pháp khác, chẳng hạn phi quốc hữu hoá các tiệm thẩm mỹ và tiệm cắt tóc nếu những tiệm này không có hơn ba ghế. Còn có bốn ghế trở lên, chúng vẫn là các xí nghiệp quốc doanh. Những “cải cách” như thế dưới chủ nghĩa xã hội tại một nước vào năm 1959, dựa trên nhiều dấu chỉ khác nhau về xã hội và kinh tế, là một trong năm nước tiên tiến nhất của Châu Mỹ La tinh, nhưng giờ đây lương trung bình chỉ độ khoảng 20 Mỹ kim. Nhiều bệnh nhân nhập viện phải mang theo khăn trải giường riêng. Hàng ngàn bác sĩ đang làm việc ở Venezuela để nuôi Cuba như Liên Xô ngày xưa từng cưu mang.
Sau cuộc đổ bộ Vịnh Con Heo vào tháng Tư năm 1961- có lẽ đây là việc sử dụng vô ích nhất sức mạnh Mỹ từ xưa đến nay- Robert bào đệ của tổng thống Kennedy gọi Cuba là “ưu tiên hàng đầu của chính phủ Hoa Kỳ -tất cả những điều khác đều là phụ – do đó không ngại tốn kém thời gian, tiền bạc, hay nhân lực.” Kể từ đấy, bao ngôn từ đanh thép đều được cả hai đảng dùng đến để giành lá phiếu của cộng đồng lưu vong 1.6 triệu người Cuba tại Mỹ, đặc biệt ở Florida, tiểu bang lớn nhất quyết định kết quả cuộc bầu cử tổng thống. Ví dụ, vào năm 1992, ứng cử viên tổng thống Bill Clinton hứa hẹn sẽ “giáng búa xuống” đầu Castro, người vẫn sống sót dù không được lòng của 11 đời tổng thống Mỹ.
Ngày nay, chính sách cô lập Cuba của Mỹ qua cấm vận kinh tế và hạn chế du lịch phục vụ hai mục tiêu của Castro: nó tạo ra sự ngoại phạm cho điều kiện xã hội của Cuba, và nó tránh cho Cuba khỏi tác động của một số lực lượng văn hoá và chính trị làm sụp đổ chủ nghĩa cộng sản ở Đông Âu. Vị tổng thống thứ 11, Barack Obama, sinh ra hơn hai năm sau khi Castro tiếm quyền, có lẽ nên nghĩ lại chính sách cấm vận này, dù sao ngay cả đến Castro cũng xét lại những nền tảng căn bản nhất.
George F. Will là nhà bình luận Mỹ nổi tiếng. Tựa đề từ một tờ báo khác.
Nguồn: “Cuba’s Castro learns what most of us already knew” Washington Post, 17/9/2010
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
16.9.10
BERNARD KOUCHNER -ĐƯƠNG ĐẦU VỚI NHỮNG KẺ THÙ CỦA INTERNET
Trần Quốc Việt dịch
Paris - Vào năm 2015, ba tỷ rưỡi người, tức gần nửa nhân loại, sẽ sử dụng internet. Chưa từng bao giờ có cuộc cách mạng về tự do thông tin và tự do ngôn luận như thế. Nhưng phương tiện truyền thông mới này sẽ được dùng như thế nào? Liệu những kẻ thù của internet sẽ còn nghĩ ra những trò nguỵ tạo và ngăn chặn mới nào?
Kỹ thuật hiện đại đưa đến những điều tốt đẹp nhất và những điều xấu xa nhất. Các trang mạng và blog mang tính quá khích, kỳ thị và bôi nhọ phát tán trong tích tắc các ý kiến đáng ghê tởm. Chúng đã biến internet thành vũ khí gây chiến và thù hận. Các trang mạng bị tấn công và những người sử dụng internet được tuyển mộ cho những mưu toan phá hoại trên khắp các chatroom. Những phong trào bạo lực đang xâm nhập vào các mạng lưới xã hội để gieo rắc tuyên truyền và thông tin giả.
Các nước dân chủ rất khó kiểm soát được những điều này. Tôi không đồng ý với niềm tin ngây thơ rằng một kỹ thuật mới, cho dù nó có thể hữu hiệu và mạnh đến mức nào, tự nhiên nhất định đẩy mạnh tự do trên khắp các mọi mặt.
Tuy nhiên, dẫu sao những ngụy tạo đó là sự ngoại lệ thay vì bình thường. Internet trước tiên là phương tiện kỳ diệu nhất để phá vỡ những bức tường và biên giới ngăn cách chúng ta với nhau. Đối với các dân tộc bị áp bức, những người đã bị tước đi quyền tự do thể hiện mình và quyền chọn tương lai cho mình, internet ban cho họ quyền lực vô song mà họ không bao giờ mơ tưởng nổi. Chỉ trong dăm phút, tin tức và hình ảnh được lưu lại trên điện thoại có thể phát tán trên toàn thế giới qua không gian mạng. Càng ngày càng khó mà che giấu một cuộc biểu tình công khai, một hành động trấn áp hay một sự vi phạm về nhân quyền.
Tại các nước chuyên chế và hà khắc, điện thoại di động và internet đã tạo ra công luận và xã hội dân sự. Bất chấp tất cả những cấm đoán, chúng cũng cho các công dân phương tiện thể hiện mình cực kỳ quan trọng.
Tuy nhiên, cám dỗ đàn áp tự do ngôn luận luôn luôn hiện diện. Số lượng các quốc gia kiểm duyệt internet, theo dõi người dùng mạng và trừng phạt họ về tội bày tỏ ý kiến đang ngày càng gia tăng đáng ngại. Chính quyền của các quốc gia này có thể dùng internet để chống lại các công dân. Internet có thể là một công cụ thu thập tình báo đáng sợ để tìm ra những người bất đồng chính kiến. Có nhiều chế độ đã hầu như nắm được kỹ thuật do thám ngày càng tinh vi.
Giá mà tất cả những ai gắn bó với nhân quyền và dân chủ đều từ chối thoả hiệp các nguyên tắc của mình và dùng internet để bảo vệ tự do ngôn luận, thì đàn áp kiểu này sẽ khó khăn hơn nhiều. Tôi không nói về tự do tuyệt đối sinh ra đủ mọi lạm dụng. Không ai cổ vũ tự do như thế. Ngược lại, tôi đang bàn về tự do chân chính, tức tự do được dựa trên nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền.
Trong vài năm vừa qua, những thể chế đa phương, chẳng hạn Hội đồng Châu Âu, và các tổ chức phi chính phủ (NGO), chẳng hạn tổ chức Phóng viên Không Biên giới, cùng với hàng ngàn cá nhân trên khắp thế giới, đã có những cam kết mạnh mẽ về những vấn đề này. Điều này chứng minh, nếu chứng minh được cần đến, rằng vấn đề này không đặt phương Tây đối đầu với cả thế giới còn lại. Có đến 180 nước dự Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin đã thừa nhận rằng Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ quát vẫn áp dụng hoàn toàn cho internet, nhất là Điều 19 khẳng định quyền tự do ngôn luận và quyền tự do bày tỏ ý kiến. Tuy nhiên, có khoảng năm mươi quốc gia không làm theo những điều họ cam kết.
Vào tháng Năm vừa qua nhân dịp Ngày Tự do Báo Chí Thế giới, tôi đã tập hợp các chuyên gia, những người đứng đầu các tổ chức phi chính phủ, nhà báo, doanh nhân và trí thức. Cuộc thảo luận của họ đã khẳng định niềm tin mãnh liệt của tôi rằng con đường chúng ta đang đi là con đường đúng. Tôi nghĩ chúng ta nên tạo ra một văn kiện quốc tế nhằm giám sát việc thực thi những cam kết mà các chính phủ đã hứa và nhằm khiển trách họ khi họ không làm đúng theo những cam kết ấy. Tôi nghĩ chúng ta nên giúp đỡ các nhà bất đồng chính kiến trên mạng, những người này nên nhận được sự ủng hộ tương tự như dành cho những nạn nhân khác của sự đàn áp về chính trị, và công khai bày tỏ sự đoàn kết của chúng ta với họ, qua sự hợp tác chặc chẽ với các tổ chức phi chính phủ hoạt động về những vấn đề này. Tôi nghĩ chúng ta cũng nên thảo luận sự hợp lý của việc thông qua một đạo luật hành vi liên quan đến việc xuất khẩu các kỹ thuật về kiểm duyệt internet và theo dõi người sử dụng mạng.
Những vấn đề này, cùng với những vấn đề khác, chẳng hạn việc bảo vệ thông tin cá nhân trên internet và quyền ân xá số (digital amnesty) cho tất cả mọi người do đồng nghiệp của tôi Nathalie Kosciusko-Morizet đề xuất, nên được bàn đến trong một mô hình (framework) có thể tập hợp chính quyền, xã hội dân sự và các chuyên gia quốc tế.
Có một kế hoạch khác mà tôi cũng rất quan tâm đến. Làm được điều này là cả một nhiệm vụ lâu dài và gay go, nhưng đây lại là một việc làm rất cần thiết. Nó sẽ ban cho internet một địa vị pháp lý phản ánh sự phổ quát của internet. Một địa vị pháp lý thừa nhận internet là một không gian quốc tế, nhờ đó các chế độ chuyên chế càng khó khăn hơn khi dùng lập luận về chủ quyền để chống lại các quyền tự do căn bản.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Tôi nghĩ trận chiến tư tưởng đã khai màn giữa một bên là những ai ủng hộ một internet phổ quát và rộng mở, dựa trên tự do ngôn luận và tự do lập hội, dựa trên cởi mở và tôn trọng quyền riêng tư, và bên kia là những kẻ rắp tâm muốn biến internet thành vô số những không gian khép kín với nhau để phục vụ cho các mục đích của chế độ, của tuyên truyền và tất cả các hình thức của chủ nghĩa cuồng tín.
Voltaire nói tự do ngôn luận là “nền tảng của tất cả các tự do khác”. Không có tự do ngôn luận, sẽ không có “các quốc gia tự do.” Tinh thần Khai sáng vốn phổ quát này nên xuyên suốt phương tiện truyền thông mới. Bảo vệ các quyền tự do căn bản và nhân quyền phải là trọng tâm cho công việc quản lý internet. Đây là việc của tất cả mọi người.
Bernard Kouchner là Ngoại trưởng Pháp và là người sáng lập ra tổ chức Bác sĩ Không Biên giới.
Nguồn: Tạp chí NPQ mùa hè năm 2010
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Paris - Vào năm 2015, ba tỷ rưỡi người, tức gần nửa nhân loại, sẽ sử dụng internet. Chưa từng bao giờ có cuộc cách mạng về tự do thông tin và tự do ngôn luận như thế. Nhưng phương tiện truyền thông mới này sẽ được dùng như thế nào? Liệu những kẻ thù của internet sẽ còn nghĩ ra những trò nguỵ tạo và ngăn chặn mới nào?
Kỹ thuật hiện đại đưa đến những điều tốt đẹp nhất và những điều xấu xa nhất. Các trang mạng và blog mang tính quá khích, kỳ thị và bôi nhọ phát tán trong tích tắc các ý kiến đáng ghê tởm. Chúng đã biến internet thành vũ khí gây chiến và thù hận. Các trang mạng bị tấn công và những người sử dụng internet được tuyển mộ cho những mưu toan phá hoại trên khắp các chatroom. Những phong trào bạo lực đang xâm nhập vào các mạng lưới xã hội để gieo rắc tuyên truyền và thông tin giả.
Các nước dân chủ rất khó kiểm soát được những điều này. Tôi không đồng ý với niềm tin ngây thơ rằng một kỹ thuật mới, cho dù nó có thể hữu hiệu và mạnh đến mức nào, tự nhiên nhất định đẩy mạnh tự do trên khắp các mọi mặt.
Tuy nhiên, dẫu sao những ngụy tạo đó là sự ngoại lệ thay vì bình thường. Internet trước tiên là phương tiện kỳ diệu nhất để phá vỡ những bức tường và biên giới ngăn cách chúng ta với nhau. Đối với các dân tộc bị áp bức, những người đã bị tước đi quyền tự do thể hiện mình và quyền chọn tương lai cho mình, internet ban cho họ quyền lực vô song mà họ không bao giờ mơ tưởng nổi. Chỉ trong dăm phút, tin tức và hình ảnh được lưu lại trên điện thoại có thể phát tán trên toàn thế giới qua không gian mạng. Càng ngày càng khó mà che giấu một cuộc biểu tình công khai, một hành động trấn áp hay một sự vi phạm về nhân quyền.
Tại các nước chuyên chế và hà khắc, điện thoại di động và internet đã tạo ra công luận và xã hội dân sự. Bất chấp tất cả những cấm đoán, chúng cũng cho các công dân phương tiện thể hiện mình cực kỳ quan trọng.
Tuy nhiên, cám dỗ đàn áp tự do ngôn luận luôn luôn hiện diện. Số lượng các quốc gia kiểm duyệt internet, theo dõi người dùng mạng và trừng phạt họ về tội bày tỏ ý kiến đang ngày càng gia tăng đáng ngại. Chính quyền của các quốc gia này có thể dùng internet để chống lại các công dân. Internet có thể là một công cụ thu thập tình báo đáng sợ để tìm ra những người bất đồng chính kiến. Có nhiều chế độ đã hầu như nắm được kỹ thuật do thám ngày càng tinh vi.
Giá mà tất cả những ai gắn bó với nhân quyền và dân chủ đều từ chối thoả hiệp các nguyên tắc của mình và dùng internet để bảo vệ tự do ngôn luận, thì đàn áp kiểu này sẽ khó khăn hơn nhiều. Tôi không nói về tự do tuyệt đối sinh ra đủ mọi lạm dụng. Không ai cổ vũ tự do như thế. Ngược lại, tôi đang bàn về tự do chân chính, tức tự do được dựa trên nguyên tắc tôn trọng nhân phẩm và nhân quyền.
Trong vài năm vừa qua, những thể chế đa phương, chẳng hạn Hội đồng Châu Âu, và các tổ chức phi chính phủ (NGO), chẳng hạn tổ chức Phóng viên Không Biên giới, cùng với hàng ngàn cá nhân trên khắp thế giới, đã có những cam kết mạnh mẽ về những vấn đề này. Điều này chứng minh, nếu chứng minh được cần đến, rằng vấn đề này không đặt phương Tây đối đầu với cả thế giới còn lại. Có đến 180 nước dự Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Xã hội Thông tin đã thừa nhận rằng Tuyên ngôn Nhân quyền Phổ quát vẫn áp dụng hoàn toàn cho internet, nhất là Điều 19 khẳng định quyền tự do ngôn luận và quyền tự do bày tỏ ý kiến. Tuy nhiên, có khoảng năm mươi quốc gia không làm theo những điều họ cam kết.
Vào tháng Năm vừa qua nhân dịp Ngày Tự do Báo Chí Thế giới, tôi đã tập hợp các chuyên gia, những người đứng đầu các tổ chức phi chính phủ, nhà báo, doanh nhân và trí thức. Cuộc thảo luận của họ đã khẳng định niềm tin mãnh liệt của tôi rằng con đường chúng ta đang đi là con đường đúng. Tôi nghĩ chúng ta nên tạo ra một văn kiện quốc tế nhằm giám sát việc thực thi những cam kết mà các chính phủ đã hứa và nhằm khiển trách họ khi họ không làm đúng theo những cam kết ấy. Tôi nghĩ chúng ta nên giúp đỡ các nhà bất đồng chính kiến trên mạng, những người này nên nhận được sự ủng hộ tương tự như dành cho những nạn nhân khác của sự đàn áp về chính trị, và công khai bày tỏ sự đoàn kết của chúng ta với họ, qua sự hợp tác chặc chẽ với các tổ chức phi chính phủ hoạt động về những vấn đề này. Tôi nghĩ chúng ta cũng nên thảo luận sự hợp lý của việc thông qua một đạo luật hành vi liên quan đến việc xuất khẩu các kỹ thuật về kiểm duyệt internet và theo dõi người sử dụng mạng.
Những vấn đề này, cùng với những vấn đề khác, chẳng hạn việc bảo vệ thông tin cá nhân trên internet và quyền ân xá số (digital amnesty) cho tất cả mọi người do đồng nghiệp của tôi Nathalie Kosciusko-Morizet đề xuất, nên được bàn đến trong một mô hình (framework) có thể tập hợp chính quyền, xã hội dân sự và các chuyên gia quốc tế.
Có một kế hoạch khác mà tôi cũng rất quan tâm đến. Làm được điều này là cả một nhiệm vụ lâu dài và gay go, nhưng đây lại là một việc làm rất cần thiết. Nó sẽ ban cho internet một địa vị pháp lý phản ánh sự phổ quát của internet. Một địa vị pháp lý thừa nhận internet là một không gian quốc tế, nhờ đó các chế độ chuyên chế càng khó khăn hơn khi dùng lập luận về chủ quyền để chống lại các quyền tự do căn bản.
Đây là một vấn đề rất quan trọng. Tôi nghĩ trận chiến tư tưởng đã khai màn giữa một bên là những ai ủng hộ một internet phổ quát và rộng mở, dựa trên tự do ngôn luận và tự do lập hội, dựa trên cởi mở và tôn trọng quyền riêng tư, và bên kia là những kẻ rắp tâm muốn biến internet thành vô số những không gian khép kín với nhau để phục vụ cho các mục đích của chế độ, của tuyên truyền và tất cả các hình thức của chủ nghĩa cuồng tín.
Voltaire nói tự do ngôn luận là “nền tảng của tất cả các tự do khác”. Không có tự do ngôn luận, sẽ không có “các quốc gia tự do.” Tinh thần Khai sáng vốn phổ quát này nên xuyên suốt phương tiện truyền thông mới. Bảo vệ các quyền tự do căn bản và nhân quyền phải là trọng tâm cho công việc quản lý internet. Đây là việc của tất cả mọi người.
Bernard Kouchner là Ngoại trưởng Pháp và là người sáng lập ra tổ chức Bác sĩ Không Biên giới.
Nguồn: Tạp chí NPQ mùa hè năm 2010
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
4.9.10
CÕNG NGƯỜI LÊN NÚI HAY KHÔNG ĐƯA NGƯỜI SANG SÔNG
Trần Quốc Việt
Chuyện mẹ kể cho con gái khi biết con sắp sinh con đầu lòng:
Một con chim mẹ và ba chim con đến bờ một con sông, sông quá rộng các chim con không thể tự mình bay qua được bờ bên kia. Đặt con chim con đầu lên cánh, chim mẹ bắt đầu bay đưa con sang sông, và khi ra đến giữa sông chim mẹ hỏi con câu hỏi sau: "Con yêu, mai này mẹ già yếu không thể bay xa được, con có đưa mẹ qua sông?" Mau lẹ và ngoan ngoãn, chim con trả lời, " Thưa mẹ, tất nhiên rồi," nghe thế chim mẹ liền thả con xuống nước bên dưới cho chết. Lập lại câu hỏi cho chim con kế, chim mẹ nhận được vẫn câu trả lời ấy, thế là cũng thả con xuống mặt nước bên dưới. Đến lượt con chim con út, chim mẹ hỏi vẫn câu hỏi ấy lần cuối cùng: "Con yêu, mai này mẹ già yếu không thể bay xa được, con có đưa mẹ qua sông?" Khác với hai anh, con chim út suy nghĩ rồi từ tốn trả lời, " Thưa mẹ, không, con không đưa mẹ qua sông, nhưng con sẽ đưa con của con qua sông." Chim mẹ lúc này rất vui vì biết chắc chắn trước tương lai của mình, tiếp tục bay đưa con qua sông và trìu mến đặt con xuống bờ xa bên kia.(1)
Từ một truyện phim Nhật:
Cuộc sống quá đỗi khó khăn ở một làng miền núi Nhật. Đói kém quanh năm. Trong làng nếu cha mẹ đến 70 tuổi chưa chết, người con đầu phải cõng cha mẹ lên núi Narayama, bỏ họ lại ở đấy để chờ chết. Người mẹ già Orin cả đời vất vả
đã 69 tuổi biết rằng đã đến lúc mình phải lên núi Narayama. Bà đã sống thọ lắm rồi và không muốn mình thành gánh nặng cho con. Thu xếp việc nhà xong, bà đập nát hàm răng còn tốt của mình vào đá để thuyết phục người con đầu Tatsuhei là bà giờ chẳng còn ích lợi gì cho con cháu. Tatsuhei đành cõng mẹ lên núi. Trên đường đi Tatsuhei rất đau lòng nhưng Orin lặng lẽ chấp nhận số phận. Theo tục lệ, sau khi ôm mẹ vào lòng lần cuối cùng, Tatsuhei phải bỏ đi không được ngó lại. Người con làm đúng như vậy nhưng sau khi đi được một đoan, trời bắt đầu đổ tuyết. Người làng tin rằng nếu tuyết rơi vào ngày người già lên núi, người già sẽ sẽ được giải thoát khỏi tất cả đau đớn. Tatsuhei chạy trở lại để la to cho mẹ biết tuyết đang rơi! Khi leo xuống núi, Tatsuhei thấy một người cùng làng đang cõng cha lên núi nhưng người cha không chịu đi và anh thấy người con ném cha xuống triền núi. (2)
Tôi hồi tưởng lại một giờ học văn với thầy Nguyễn Văn Xuân, trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng, vào một ngày sau tháng Tư năm 1975. Câu ca dao xứ Quảng thầy dạy vẫn còn khắc sâu trong lòng bao năm nay:
"Gánh cực mà chạy lên non,
Cong lưng chạy xuống cực còn chạy theo."
Báo trong nước đăng tin:
"Hơn 36,000 người vào lăng viếng Bác trong ngày quốc khánh."
Việt Nam không có tuyết để các con an lòng đưa cha lên núi.Vì thế dòng người đứng xếp hàng mê mải dưới bóng mát của lăng mà quên cõng cực lên non.
Chú thích
(1)Amy A. Kass, tạp chí First Things số tháng Giêng năm 1995
(2)Từ phim Nhật The Ballad of Narayama(1983), đạo diễn Shohei Imamura
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Chuyện mẹ kể cho con gái khi biết con sắp sinh con đầu lòng:
Một con chim mẹ và ba chim con đến bờ một con sông, sông quá rộng các chim con không thể tự mình bay qua được bờ bên kia. Đặt con chim con đầu lên cánh, chim mẹ bắt đầu bay đưa con sang sông, và khi ra đến giữa sông chim mẹ hỏi con câu hỏi sau: "Con yêu, mai này mẹ già yếu không thể bay xa được, con có đưa mẹ qua sông?" Mau lẹ và ngoan ngoãn, chim con trả lời, " Thưa mẹ, tất nhiên rồi," nghe thế chim mẹ liền thả con xuống nước bên dưới cho chết. Lập lại câu hỏi cho chim con kế, chim mẹ nhận được vẫn câu trả lời ấy, thế là cũng thả con xuống mặt nước bên dưới. Đến lượt con chim con út, chim mẹ hỏi vẫn câu hỏi ấy lần cuối cùng: "Con yêu, mai này mẹ già yếu không thể bay xa được, con có đưa mẹ qua sông?" Khác với hai anh, con chim út suy nghĩ rồi từ tốn trả lời, " Thưa mẹ, không, con không đưa mẹ qua sông, nhưng con sẽ đưa con của con qua sông." Chim mẹ lúc này rất vui vì biết chắc chắn trước tương lai của mình, tiếp tục bay đưa con qua sông và trìu mến đặt con xuống bờ xa bên kia.(1)
Từ một truyện phim Nhật:
Cuộc sống quá đỗi khó khăn ở một làng miền núi Nhật. Đói kém quanh năm. Trong làng nếu cha mẹ đến 70 tuổi chưa chết, người con đầu phải cõng cha mẹ lên núi Narayama, bỏ họ lại ở đấy để chờ chết. Người mẹ già Orin cả đời vất vả
đã 69 tuổi biết rằng đã đến lúc mình phải lên núi Narayama. Bà đã sống thọ lắm rồi và không muốn mình thành gánh nặng cho con. Thu xếp việc nhà xong, bà đập nát hàm răng còn tốt của mình vào đá để thuyết phục người con đầu Tatsuhei là bà giờ chẳng còn ích lợi gì cho con cháu. Tatsuhei đành cõng mẹ lên núi. Trên đường đi Tatsuhei rất đau lòng nhưng Orin lặng lẽ chấp nhận số phận. Theo tục lệ, sau khi ôm mẹ vào lòng lần cuối cùng, Tatsuhei phải bỏ đi không được ngó lại. Người con làm đúng như vậy nhưng sau khi đi được một đoan, trời bắt đầu đổ tuyết. Người làng tin rằng nếu tuyết rơi vào ngày người già lên núi, người già sẽ sẽ được giải thoát khỏi tất cả đau đớn. Tatsuhei chạy trở lại để la to cho mẹ biết tuyết đang rơi! Khi leo xuống núi, Tatsuhei thấy một người cùng làng đang cõng cha lên núi nhưng người cha không chịu đi và anh thấy người con ném cha xuống triền núi. (2)
Tôi hồi tưởng lại một giờ học văn với thầy Nguyễn Văn Xuân, trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng, vào một ngày sau tháng Tư năm 1975. Câu ca dao xứ Quảng thầy dạy vẫn còn khắc sâu trong lòng bao năm nay:
"Gánh cực mà chạy lên non,
Cong lưng chạy xuống cực còn chạy theo."
Báo trong nước đăng tin:
"Hơn 36,000 người vào lăng viếng Bác trong ngày quốc khánh."
Việt Nam không có tuyết để các con an lòng đưa cha lên núi.Vì thế dòng người đứng xếp hàng mê mải dưới bóng mát của lăng mà quên cõng cực lên non.
Chú thích
(1)Amy A. Kass, tạp chí First Things số tháng Giêng năm 1995
(2)Từ phim Nhật The Ballad of Narayama(1983), đạo diễn Shohei Imamura
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
31.8.10
P.J. O'ROURKE -ĐÀI CHÂU ÂU TỰ DO, TỰ DO NGÔN LUẬN, VÀ TỰ DO
Trần Quốc Việt dịch
Công việc của Đài Châu Âu Tự do/Đài Tự do (RFE/RL) là dễ hiểu: cung cấp tự do ngôn luận. RFE/RL phát thanh bằng 28 thứ tiếng đến một số quốc gia, nơi có rất ít tự do ngôn luận và đến các quốc gia, nơi không có tự do ngôn luận. Vì thuế của người Mỹ được dùng để tài trợ tự do ngôn luận này, nên ta cũng đáng hỏi, “Để làm gì?”. Nhiều người, đặc biệt những người lớn lên trong các xã hội dân chủ, sẽ đáp, “vì tự do ngôn luận khích lệ dân chủ”. Nhưng ý tưởng ấy gán cho RFE/RL một sứ mệnh vừa quá đơn giản lại vừa quá phức tạp.
Quá đơn giản vì “khích lệ dân chủ” làm dân chủ có vẻ như một món hàng, một sản phẩm, một thương hiệu về món ăn vặt mà RFE/RL tưởng chừng đang bán. Như thế Bộ Ngoại giao, Tổng thống, và Quốc hội có thể tính được sản phẩm này bán ra được bao nhiêu. Một dân biểu có thể nói, “Tôi nghĩ chúng ta đang cổ vũ ngon trớn dân chủ ở Iran, thì thình lình doanh số bán chựng hẳn lại. Vậy để tránh lỗ thêm, chúng ta hãy rút ra khỏi thị trường ấy”. Nhưng dân chủ không phải là món ăn vặt mới ra nào đấy, chẳng hạn Squid Chips’N Cheese, mà mới cắn lần đầu ai cũng thích. Những kẻ nắm quyền lực độc tài, đặc biệt, lại không thích cắn. Dân chủ chẳng phải đơn giản như thế, và tự do ngôn luận cũng không đơn giản như thế.
Mặt khác, “khích lệ dân chủ” làm sứ mạng của RFE/RL trở thành quá phức tạp, quá khó khăn, ngay cả bất khả thi. Những nhà tư tưởng lớn đã không ngừng khích lệ dân chủ kể từ thời nền văn minh Hy Lạp cổ đại cho đến nay. Bây giờ, với chỉ vài chương trình phát thanh, lẽ nào ta lại mong đợi RFE/RL đạt được những gì mà biết bao nhà hùng biện thiên tài đã không thể đạt được trong 2.500 năm qua.
Mỹ là cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới. Quân đội Mỹ khích lệ dân chủ. Vẫn còn vài khó khăn ở Iraq và Afghanistan. Nhưng với vài chiếc đài bán dẫn rẻ tiền, lẽ nào ta lại mong đợi RFE/RL đạt được những gì mà bộ binh, hải quân, và thuỷ quân lục chiến Mỹ đã không đạt được với súng ống, bom, máy bay, và trực thăng trị giá hàng tỷ đô la.
Thật ra sứ mạng thực sự của Đài Châu Âu Tự do /Đài Tự do không phức tạp một cách đáng sợ mà cũng không cực kỳ đơn giản. RFE/RL cung cấp thông tin.
Thông tin là cốt lõi của những gì ta có thể gọi “Thái độ Tự do” – cảm giác mình tự do.
Người ta, tất nhiên, phải cảm thấy không bị kìm kẹp về thể chất và kinh tế. Nhưng trước tiên họ phải cảm thấy không bị bưng bít thông tin.
Người ta cần được nhìn ra khắp nơi, người ta cần phải thấy. Tuy cùng bị nhốt trong phòng nhưng những người bị nhốt trong phòng có đèn chiếu sáng cảm thấy tự do hơn những người bị nhốt trong phòng tối, nơi họ đụng phải bàn ghế và đụng lẫn vào nhau.
Có sức mạnh trong Thái độ Tự do – ý thức rằng ta có nhiều kiến thức, nhiều hiểu biết, và vì vậy ta làm chủ được nhiều, dù chỉ làm chủ được tư tưởng của mình.
Sức mạnh của Mỹ không thuộc về kinh tế, quân sự, hay ngoại giao. Sức mạnh của Mỹ là một niềm tin – niềm tin về một nơi mà mọi người đều có thông tin, sự hiểu biết, và làm chủ cuộc đời họ. Có lần, vào lúc cuộc nội chiến diễn ra ở Lebanon, tôi bị một thanh niên mang súng AK-47 chặn lại tại một trạm kiểm soát của quân Hezbollah. Khi chàng trai trẻ thấy hộ chiếu Mỹ của tôi anh ta liền chĩa nòng súng thẳng vào mặt tôi rồi thao thao lên lớp tôi hai chục phút về “con quỷ lớn Satan Mỹ”. Anh ta kể lể Mỹ gây ra chiến tranh, đói kém, bất công, ủng hộ bọn Do Thái, và cảnh bần hàn trên khắp thế giới. Sau khi giảng bài xong, anh ta hạ súng xuống và nói, “Ngay khi tôi lấy được Thẻ Xanh tôi sẽ đến Dearborn, bang Michigan để theo học trường nha.”
Thông tin là nguồn gốc của quyền công dân. Không có thông tin đừng có ai nghĩ đến chuyện có thể cố gắng xây dựng một xã hội dân sự.
RFE/RL quan trọng trong nhiệm vụ của mình là cung cấp thông tin và càng quan trọng hơn trong nhiệm vụ cố gắng để làm thông tin ấy chính xác. RFE/RL chẳng phải lúc nào cũng hoàn toàn thành công về làm thông tin chính xác. Đây là điều không thể nào đạt được. Không có tổ chức nào hay cá nhân nào hoàn toàn luôn luôn thành công trong việc làm thông tin chính xác. Tôi nói lên điều này với tư cách là phóng viên. Chúng ta không phải lúc nào cũng đúng. Hãy hỏi tướng McChrystal. Điều quan trọng là cố gắng. Cố gắng cung cấp thông tin chính xác là chống lại những tin đồn, những đồn đại về các âm mưu, những căm ghét tế thần, và những tố cáo giả dối mang tính giật gân.
Bưng bít thông tin tạo ra một thế giới quan thù nghịch với tự do vì bưng bit thông tin là phủ nhận thông tin, sự hiểu biết, và ý thức tự chủ mà cần thiết cho cảm nhận rằng ta là người tự do – người tự do ở trong lòng cho dù thể xác có bị hành hạ đến mức độ nào chăng nữa.
Trao đổi thông tin chính xác là nền tảng của sự tin tưởng giữa các cá nhân với nhau, một sự tin tưởng có thể được mở rộng ra ngoài phạm vi gia đình, dòng họ, bộ tộc, hay những nhóm cộng sự nhỏ. Sự tin tưởng mở rộng này là nền móng cho những đồng ý mà là cốt lõi của một xã hội tự do và dân chủ. Chúng ta cần trao đổi thông tin vì chúng ta cần sự đồng ý.
Nhưng chúng ta cũng cần trao đổi thông tin vì chúng ta cần sự bất đồng. Tranh luận về các vấn đề, tranh luận dựa trên thông tin chính xác cũng là cốt lõi của một xã hội tự do và dân chủ. Chính nhờ tranh luận có hiểu biết này nên những ai sống trong các xã hội tự do đều có thể “đánh mà không cần phải giết”.
Thật ra, về mức độ nào đấy, tranh luận có hiểu biết cho phép chúng ta “đánh không cần thắng”. Trong một nước dân chủ không có bên nào thắng mãi mãi. Bên kia có thể luôn luôn quay trở lại với cuộc tranh luận khác. Và có thể lần sau bên kia thắng. Thông tin tiếp tục thay đổi, vì thế tư tưởng tiếp tục thay đổi, vì thế đầu óc tiếp tục thay đổi. John Maynard Keynes có lần bị chê trách là không nhất quán trong những lời tuyên bố của ông về kinh tế. Keynes đáp, “Khi thông tin của tôi thay đổi, đầu óc của tôi thay đổi theo. Còn ông thì sao?”
Trong một nước dân chủ chúng ta không gọi những thay đổi này là chiến tranh, chúng ta gọi chúng là chính trị.
Một khía cạnh quan trọng hơn của tự do là thị trường tự do. Tôi không tuyên bố điều này vì thị trường tự do làm cho nhiều người thịnh vượng hơn – tuy rằng đúng như thế. Tôi cũng không tuyên bố điều này vì chủ nghĩa tư bản luôn luôn tuyệt vời – thường không được như thế. Tầm quan trọng của thị trường tự do đối với tự do xuất phát từ chính công việc RFE/RL đang làm – trao đổi thông tin.
Thị trường tự do liên quan đến thông tin. Thật sự nó liên quan đến chỉ một thông tin, nhưng lại là một thông tin quan trọng. Thị trường tự do cho chúng ta biết vào lúc nào người nào sẽ trả bao nhiêu cho hàng hoá nào. Thị trường tự do không phải là một ý thức hệ hay một tín điều hay một điều gì đấy ta tin mình nên tin tưởng chấp nhận, thị trường tự do là một sự đo lường. Nó là cái cân trong phòng tắm. Khi tôi bước lên bàn cân trong phòng tắm tôi có thể ghét cái tôi thấy, nhưng tôi không thể thông qua một đạo luật nói rằng tôi nặng 160 pound. Các chính quyền độc đoán nghĩ họ có thể thông qua đạo luật ấy – một đạo luật thay đổi sự đo lường của mọi sự vật.
Liên Xô đã không sụp đổ vì Reagan hay Thatcher hay vì các căn cứ hoả tiễn hay chương trình Star Wars: nó sụp đổ vì chiếc quần jean màu xanh của Bulgaria. Thị trường tự do đã cố gắng nói nhiều lần với những người cộng sản rằng chiếc quần jean xanh của Bulgaria đã xấu xí mà lại mặc không vừa vặn, rằng người dân sẽ không chịu mặc chiếc quần jean xanh của Bulgaria – thực tình, thị trường nói ra không phải để cứu mạng họ. Nhưng điện Kremlin không chịu lắng nghe, thế là Bức tường Berlin sụp đổ.
Cuối cùng, trao đổi thông tin tạo ra thêm một đóng góp nữa lớn hơn cho tự do. Khi chúng ta trao đổi thông tin với mọi người chúng ta xem mọi người đều bình đẳng như nhau. Riêng việc nói chuyện với họ không thôi cũng chứng tỏ rằng những người đó không phải là những người “không đáng được nói chuyện”. Trong xã hội tự do tất cả mọi người đều đáng được nói chuyện.
Trong xã hội tự do tất cả mọi người đều phải được truyền đạt thông tin, và chúng ta phải có thể được nhận được thông tin phản hồi từ họ. Người ta phải có thể được nói lại. Người ta phải có thể được trao đổi thông tin với cấu trúc chính trị. Người ta phải có thể truyền đạt những thông tin nào đấy đến những người lãnh đạo của cấu trúc chính trị. Chẳng hạn thông tin, “Ông bị đuổi!”
Và đây là một trong những điều tốt đẹp nhất RFE/RL đang làm. Đài không chỉ muốn có người lắng nghe mình. Với các chương trình cho phép thính giả gọi vào, kỹ thuật truyền thông giao diện xã hội (interactive social media), và mạng lưới toả rộng của các phóng viên và cộng tác viên địa phương của mình, đài cũng cho phép thính giả và độc giả trang mạng của đài được bày tỏ ý kiến riêng. Thậm chí mọi người biết Taliban đã gọi vào các chương trình đối thoại tại văn phòng của đài ở Kabul để tranh luận với người điều hợp chương trình và các khách mời.
Sự bình đẳng được tôn trọng dành cho mọi công dân mà RFE/RL thể hiện qua công việc truyền đạt thông tin của đài là ngược lại với việc áp dụng quyền lực độc đoán. Việc áp dụng quyền lực độc đoán nghĩa là có những người nào đấy chẳng đáng nói chuyện – họ chỉ đáng bị giết.
Không cho phép phụ nữ được hưởng nền giáo dục hay không cho phép các nhóm thiểu số được hưởng các quyền chính trị là mặc nhiên tạo ra những hạng người chẳng đáng được nói chuyện. Và nếu ta không muốn nói chuyện với nhân dân, ta chắc chắn sẽ chẳng thèm lắng nghe họ.
Tự do là người dân được lắng nghe khi họ nói họ muốn sống trong xã hội nào và họ muốn sống như thế nào trong xã hội ấy. Những kênh thông tin đơn giản và trực tiếp mà RFE/RL đã mở ra và hiện để mở suốt ngày đêm là những kênh dẫn đường đến dân chủ. Như thế thật không sai khi ta nói RFE/RL “khích lệ dân chủ.” Nhưng đấy là sự khích lệ về một dân chủ do tự nhân dân thích nói ra, chứ không phải là thứ dân chủ mà người ta muốn nhét tọng vào cổ họng của họ.
P.J. O’Rourke là nhà báo và nhà châm biếm chính trị Mỹ nổi tiếng.
Nguồn: Tạp chí World Affairs số tháng Tám năm 2010
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Công việc của Đài Châu Âu Tự do/Đài Tự do (RFE/RL) là dễ hiểu: cung cấp tự do ngôn luận. RFE/RL phát thanh bằng 28 thứ tiếng đến một số quốc gia, nơi có rất ít tự do ngôn luận và đến các quốc gia, nơi không có tự do ngôn luận. Vì thuế của người Mỹ được dùng để tài trợ tự do ngôn luận này, nên ta cũng đáng hỏi, “Để làm gì?”. Nhiều người, đặc biệt những người lớn lên trong các xã hội dân chủ, sẽ đáp, “vì tự do ngôn luận khích lệ dân chủ”. Nhưng ý tưởng ấy gán cho RFE/RL một sứ mệnh vừa quá đơn giản lại vừa quá phức tạp.
Quá đơn giản vì “khích lệ dân chủ” làm dân chủ có vẻ như một món hàng, một sản phẩm, một thương hiệu về món ăn vặt mà RFE/RL tưởng chừng đang bán. Như thế Bộ Ngoại giao, Tổng thống, và Quốc hội có thể tính được sản phẩm này bán ra được bao nhiêu. Một dân biểu có thể nói, “Tôi nghĩ chúng ta đang cổ vũ ngon trớn dân chủ ở Iran, thì thình lình doanh số bán chựng hẳn lại. Vậy để tránh lỗ thêm, chúng ta hãy rút ra khỏi thị trường ấy”. Nhưng dân chủ không phải là món ăn vặt mới ra nào đấy, chẳng hạn Squid Chips’N Cheese, mà mới cắn lần đầu ai cũng thích. Những kẻ nắm quyền lực độc tài, đặc biệt, lại không thích cắn. Dân chủ chẳng phải đơn giản như thế, và tự do ngôn luận cũng không đơn giản như thế.
Mặt khác, “khích lệ dân chủ” làm sứ mạng của RFE/RL trở thành quá phức tạp, quá khó khăn, ngay cả bất khả thi. Những nhà tư tưởng lớn đã không ngừng khích lệ dân chủ kể từ thời nền văn minh Hy Lạp cổ đại cho đến nay. Bây giờ, với chỉ vài chương trình phát thanh, lẽ nào ta lại mong đợi RFE/RL đạt được những gì mà biết bao nhà hùng biện thiên tài đã không thể đạt được trong 2.500 năm qua.
Mỹ là cường quốc quân sự mạnh nhất thế giới. Quân đội Mỹ khích lệ dân chủ. Vẫn còn vài khó khăn ở Iraq và Afghanistan. Nhưng với vài chiếc đài bán dẫn rẻ tiền, lẽ nào ta lại mong đợi RFE/RL đạt được những gì mà bộ binh, hải quân, và thuỷ quân lục chiến Mỹ đã không đạt được với súng ống, bom, máy bay, và trực thăng trị giá hàng tỷ đô la.
Thật ra sứ mạng thực sự của Đài Châu Âu Tự do /Đài Tự do không phức tạp một cách đáng sợ mà cũng không cực kỳ đơn giản. RFE/RL cung cấp thông tin.
Thông tin là cốt lõi của những gì ta có thể gọi “Thái độ Tự do” – cảm giác mình tự do.
Người ta, tất nhiên, phải cảm thấy không bị kìm kẹp về thể chất và kinh tế. Nhưng trước tiên họ phải cảm thấy không bị bưng bít thông tin.
Người ta cần được nhìn ra khắp nơi, người ta cần phải thấy. Tuy cùng bị nhốt trong phòng nhưng những người bị nhốt trong phòng có đèn chiếu sáng cảm thấy tự do hơn những người bị nhốt trong phòng tối, nơi họ đụng phải bàn ghế và đụng lẫn vào nhau.
Có sức mạnh trong Thái độ Tự do – ý thức rằng ta có nhiều kiến thức, nhiều hiểu biết, và vì vậy ta làm chủ được nhiều, dù chỉ làm chủ được tư tưởng của mình.
Sức mạnh của Mỹ không thuộc về kinh tế, quân sự, hay ngoại giao. Sức mạnh của Mỹ là một niềm tin – niềm tin về một nơi mà mọi người đều có thông tin, sự hiểu biết, và làm chủ cuộc đời họ. Có lần, vào lúc cuộc nội chiến diễn ra ở Lebanon, tôi bị một thanh niên mang súng AK-47 chặn lại tại một trạm kiểm soát của quân Hezbollah. Khi chàng trai trẻ thấy hộ chiếu Mỹ của tôi anh ta liền chĩa nòng súng thẳng vào mặt tôi rồi thao thao lên lớp tôi hai chục phút về “con quỷ lớn Satan Mỹ”. Anh ta kể lể Mỹ gây ra chiến tranh, đói kém, bất công, ủng hộ bọn Do Thái, và cảnh bần hàn trên khắp thế giới. Sau khi giảng bài xong, anh ta hạ súng xuống và nói, “Ngay khi tôi lấy được Thẻ Xanh tôi sẽ đến Dearborn, bang Michigan để theo học trường nha.”
Thông tin là nguồn gốc của quyền công dân. Không có thông tin đừng có ai nghĩ đến chuyện có thể cố gắng xây dựng một xã hội dân sự.
RFE/RL quan trọng trong nhiệm vụ của mình là cung cấp thông tin và càng quan trọng hơn trong nhiệm vụ cố gắng để làm thông tin ấy chính xác. RFE/RL chẳng phải lúc nào cũng hoàn toàn thành công về làm thông tin chính xác. Đây là điều không thể nào đạt được. Không có tổ chức nào hay cá nhân nào hoàn toàn luôn luôn thành công trong việc làm thông tin chính xác. Tôi nói lên điều này với tư cách là phóng viên. Chúng ta không phải lúc nào cũng đúng. Hãy hỏi tướng McChrystal. Điều quan trọng là cố gắng. Cố gắng cung cấp thông tin chính xác là chống lại những tin đồn, những đồn đại về các âm mưu, những căm ghét tế thần, và những tố cáo giả dối mang tính giật gân.
Bưng bít thông tin tạo ra một thế giới quan thù nghịch với tự do vì bưng bit thông tin là phủ nhận thông tin, sự hiểu biết, và ý thức tự chủ mà cần thiết cho cảm nhận rằng ta là người tự do – người tự do ở trong lòng cho dù thể xác có bị hành hạ đến mức độ nào chăng nữa.
Trao đổi thông tin chính xác là nền tảng của sự tin tưởng giữa các cá nhân với nhau, một sự tin tưởng có thể được mở rộng ra ngoài phạm vi gia đình, dòng họ, bộ tộc, hay những nhóm cộng sự nhỏ. Sự tin tưởng mở rộng này là nền móng cho những đồng ý mà là cốt lõi của một xã hội tự do và dân chủ. Chúng ta cần trao đổi thông tin vì chúng ta cần sự đồng ý.
Nhưng chúng ta cũng cần trao đổi thông tin vì chúng ta cần sự bất đồng. Tranh luận về các vấn đề, tranh luận dựa trên thông tin chính xác cũng là cốt lõi của một xã hội tự do và dân chủ. Chính nhờ tranh luận có hiểu biết này nên những ai sống trong các xã hội tự do đều có thể “đánh mà không cần phải giết”.
Thật ra, về mức độ nào đấy, tranh luận có hiểu biết cho phép chúng ta “đánh không cần thắng”. Trong một nước dân chủ không có bên nào thắng mãi mãi. Bên kia có thể luôn luôn quay trở lại với cuộc tranh luận khác. Và có thể lần sau bên kia thắng. Thông tin tiếp tục thay đổi, vì thế tư tưởng tiếp tục thay đổi, vì thế đầu óc tiếp tục thay đổi. John Maynard Keynes có lần bị chê trách là không nhất quán trong những lời tuyên bố của ông về kinh tế. Keynes đáp, “Khi thông tin của tôi thay đổi, đầu óc của tôi thay đổi theo. Còn ông thì sao?”
Trong một nước dân chủ chúng ta không gọi những thay đổi này là chiến tranh, chúng ta gọi chúng là chính trị.
Một khía cạnh quan trọng hơn của tự do là thị trường tự do. Tôi không tuyên bố điều này vì thị trường tự do làm cho nhiều người thịnh vượng hơn – tuy rằng đúng như thế. Tôi cũng không tuyên bố điều này vì chủ nghĩa tư bản luôn luôn tuyệt vời – thường không được như thế. Tầm quan trọng của thị trường tự do đối với tự do xuất phát từ chính công việc RFE/RL đang làm – trao đổi thông tin.
Thị trường tự do liên quan đến thông tin. Thật sự nó liên quan đến chỉ một thông tin, nhưng lại là một thông tin quan trọng. Thị trường tự do cho chúng ta biết vào lúc nào người nào sẽ trả bao nhiêu cho hàng hoá nào. Thị trường tự do không phải là một ý thức hệ hay một tín điều hay một điều gì đấy ta tin mình nên tin tưởng chấp nhận, thị trường tự do là một sự đo lường. Nó là cái cân trong phòng tắm. Khi tôi bước lên bàn cân trong phòng tắm tôi có thể ghét cái tôi thấy, nhưng tôi không thể thông qua một đạo luật nói rằng tôi nặng 160 pound. Các chính quyền độc đoán nghĩ họ có thể thông qua đạo luật ấy – một đạo luật thay đổi sự đo lường của mọi sự vật.
Liên Xô đã không sụp đổ vì Reagan hay Thatcher hay vì các căn cứ hoả tiễn hay chương trình Star Wars: nó sụp đổ vì chiếc quần jean màu xanh của Bulgaria. Thị trường tự do đã cố gắng nói nhiều lần với những người cộng sản rằng chiếc quần jean xanh của Bulgaria đã xấu xí mà lại mặc không vừa vặn, rằng người dân sẽ không chịu mặc chiếc quần jean xanh của Bulgaria – thực tình, thị trường nói ra không phải để cứu mạng họ. Nhưng điện Kremlin không chịu lắng nghe, thế là Bức tường Berlin sụp đổ.
Cuối cùng, trao đổi thông tin tạo ra thêm một đóng góp nữa lớn hơn cho tự do. Khi chúng ta trao đổi thông tin với mọi người chúng ta xem mọi người đều bình đẳng như nhau. Riêng việc nói chuyện với họ không thôi cũng chứng tỏ rằng những người đó không phải là những người “không đáng được nói chuyện”. Trong xã hội tự do tất cả mọi người đều đáng được nói chuyện.
Trong xã hội tự do tất cả mọi người đều phải được truyền đạt thông tin, và chúng ta phải có thể được nhận được thông tin phản hồi từ họ. Người ta phải có thể được nói lại. Người ta phải có thể được trao đổi thông tin với cấu trúc chính trị. Người ta phải có thể truyền đạt những thông tin nào đấy đến những người lãnh đạo của cấu trúc chính trị. Chẳng hạn thông tin, “Ông bị đuổi!”
Và đây là một trong những điều tốt đẹp nhất RFE/RL đang làm. Đài không chỉ muốn có người lắng nghe mình. Với các chương trình cho phép thính giả gọi vào, kỹ thuật truyền thông giao diện xã hội (interactive social media), và mạng lưới toả rộng của các phóng viên và cộng tác viên địa phương của mình, đài cũng cho phép thính giả và độc giả trang mạng của đài được bày tỏ ý kiến riêng. Thậm chí mọi người biết Taliban đã gọi vào các chương trình đối thoại tại văn phòng của đài ở Kabul để tranh luận với người điều hợp chương trình và các khách mời.
Sự bình đẳng được tôn trọng dành cho mọi công dân mà RFE/RL thể hiện qua công việc truyền đạt thông tin của đài là ngược lại với việc áp dụng quyền lực độc đoán. Việc áp dụng quyền lực độc đoán nghĩa là có những người nào đấy chẳng đáng nói chuyện – họ chỉ đáng bị giết.
Không cho phép phụ nữ được hưởng nền giáo dục hay không cho phép các nhóm thiểu số được hưởng các quyền chính trị là mặc nhiên tạo ra những hạng người chẳng đáng được nói chuyện. Và nếu ta không muốn nói chuyện với nhân dân, ta chắc chắn sẽ chẳng thèm lắng nghe họ.
Tự do là người dân được lắng nghe khi họ nói họ muốn sống trong xã hội nào và họ muốn sống như thế nào trong xã hội ấy. Những kênh thông tin đơn giản và trực tiếp mà RFE/RL đã mở ra và hiện để mở suốt ngày đêm là những kênh dẫn đường đến dân chủ. Như thế thật không sai khi ta nói RFE/RL “khích lệ dân chủ.” Nhưng đấy là sự khích lệ về một dân chủ do tự nhân dân thích nói ra, chứ không phải là thứ dân chủ mà người ta muốn nhét tọng vào cổ họng của họ.
P.J. O’Rourke là nhà báo và nhà châm biếm chính trị Mỹ nổi tiếng.
Nguồn: Tạp chí World Affairs số tháng Tám năm 2010
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Subscribe to:
Posts (Atom)