23.7.21

Trần Quốc Việt- Vô Đề

Nhìn biển tưởng đời

Nhìn đời tưởng biển

Tưởng mình bọt biển

Tan trong biển đời

Trần Quốc Việt- Vô Đề

Mũ ni che tai

Đi suốt cuộc đời 

Cuối cùng kinh kệ

Niết bàn phương nào?

2.2.17

Trần Quốc Việt - Ngày sinh của giả dối

Tám mươi hai năm ngày sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng ta có thể không biết ngày sinh của cha mẹ mình, nhưng ngày sinh của đảng chúng ta không thể nào không nhớ khi hàng năm ngày sinh ấy được các phương tiện truyền thông loan báo rầm rộ với bao nhiêu hoạt động chào mừng cùng với biết bao nhiêu biểu ngữ giăng trên khắp đường phố trong cả nước.

Chỉ trừ khi chúng ta  mù và điếc bẩm sinh hay mới chập chững bước đi những bước đầu tiên trong đời chúng ta mới không biết đến ngày sinh ấy.

Đấy là bất hạnh đầu tiên của người dân sống trong xã hội cộng sản. Ít nhất một phần bộ nhớ và ký ức của ta thuộc về đảng.

Đảng không bao giờ "chết" một khi đảng ra đời. Ngày 1 tháng Mười, 1949 nửa triệu người trên Quảng trường Thiên An Môn hô vang trời khẩu hiệu: "Mao Trạch Đông muôn năm!" Ngày 2 tháng Chín, 1945 "cả biển người" Việt Nam cũng hô vang "Chủ tịch Hồ chí Minh muôn năm!" Những người sáng lập ra đảng muôn năm thì tất yếu đảng cũng muôn năm.

Đây là bất hạnh thứ hai của người dân sống trong xã hội cộng sản. Lịch sử của đất nước và dân tộc sau tiếng hô ấy đã trở thành lịch sử đảng nối dài.

Từ ngày đấy, phản ứng dây chuyền về sự mất mát bắt đầu. Chúng ta dần dần mất ngôn ngữ, đạo đức, văn hoá và bản sắc truyền thống. Cuộc sống chúng ta diễn ra dưới chiếc bóng bao trùm của đảng từ lúc ta lọt lòng đến lúc ta qua đời là cuộc sống giả khi bao quanh ta toàn là đồ giả. Hiện thực giả, giáo dục giả, văn hoá giả, văn chương giả, lịch sử giả, tôn giáo giả, quân đội giả, nhà báo giả, nhà văn giả, nhà thơ giả, sử gia giả, trí thức giả cho đến thiên nhiên giả qua khẩu hiệu "mừng Đảng mừng xuân."

Đây là bất hạnh thứ ba của người dân sống trong xã hội cộng sản. Sống với giả dối bao trùm. Nhà thơ Boris Pasternak viết:

"Chỉ có một mình tôi; còn tất cả quanh tôi đều chìm đắm trong giả dối:
 Cuộc đời không phải cuộc đi dạo qua cánh đồng."

Đồng xanh bao đời đã thành cánh đồng xi măng khổng lồ, vùi dập dưới đấy biết bao nhiêu lá cỏ, hương thơm, sắc màu, âm thanh, mưa gió của cuộc sống tự nhiên. Chúng ta diễn trền nền xi măng bao la ấy theo sự hướng dẫn của đảng, và dù muốn hay không, chúng ta cũng trượt dài về nhân cách và đạo đức. Chúng ta vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm trong tấn bi kịch lớn diễn ra trên nền xi măng ấy.

Đây là bất hạnh thứ tư của người dân sống trong xã hội cộng sản. Chúng ta không bao giờ thành người trọn vẹn. Nhân danh thiên đường không tưởng, phần bản năng trong con người được đảng khích lệ, nhen nhúm, và thổi bùng lên như ngọn lửa, còn phần tinh tuý nhất của nền văn minh con người mờ nhạt dần.

Hôm nay chúng ta thấy những kẻ nứt toả lan ra nền xi măng giả dối và vô nhân tính ấy, và qua những kẻ hở ấy, dưới ánh mặt trời, những mầm sống tự nhiên của xã hội dân sự và của nền văn minh tinh thần con người bắt đầu cố run rẫy vươn lên.

Chúng ta hãy hy vọng và hành động cho mục đích cuối cùng: chính quyền về tay nhân dân.

Nhưng vì đảng là muôn năm nếu chúng ta đứng bên lề chờ lịch sử đến. Hãy bước xuống đường xây dựng những giáo đường, những mái chùa mới đích thực cho tâm hồn và niềm tin, hãy nối lại từng sợi chỉ đã đứt của tấm thảm xã hội dân sự, hãy hàn gắn lại những mảnh vỡ của nền văn hoá tan vỡ. Nếu thực hiện được những điều này, chúng ta sẽ ngày càng tách xa ra tầm ảnh hưởng và kiểm soát của đảng, và quan trọng hơn, tìm lại ý nghĩa của cuộc đời mình - bước đầu tiên trên con đường nhọc nhằn giành lại nhân phẩm.

Những người biểu tình Nga hô vang "Chúng tôi tồn tại!" trong hơi băng lạnh giá ghê gớm của mùa đông . Cử tri Tunisia hân hoan la to "Chúng tôi đi bầu, chúng tôi tồn tại!" khi đứng xếp hàng hàng mấy tiếng đồng hồ để bỏ phiếu tự do lần đầu tiên.

Ngày nào đó chúng ta cũng sẽ như họ dõng dạc hô vang:"Chúng tôi tồn tại!" Chúng tôi không phải vô hình, hay những chiếc bóng mờ nhạt trong chiếc bóng đậm đen của đảng. Vũ khí duy nhất chúng ta cần là hy vọng và can đảm.

Khi ngày ấy đến, khi chính quyền về lại tay nhân dân, trên đôi chân rướm máu, đầy thương tích, chúng ta cùng nhau dìu bước tiến về tương lai.

Tám mươi hai năm ngày sinh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng giờ là con khủng  long cuối mùa sống trên thân thể còm cõi của tổ quốc Việt Nam. Con khủng long ấy có cái đuôi "định hướng xã hội chủ nghĩa" dài lê thê, cái bụng khổng lồ tham lam vô đáy của chủ nghĩa tư bản hoang dã, và bộ não tí tẹo trong cái đầu rất nhỏ so với thân thể khổng lồ. Phần chất xám tí tẹo ấy không có tầm nhìn xa hơn tư duy nhiệm kỳ. Lẽ nào chúng ta đặt số phận cá nhân mình và số phận của quốc gia vào chất xám ít ỏi hình thành từ trong bóng tối và rừng thẳm ấy (1)

Nếu chúng ta không làm gì, đời con cháu ta sẽ tiếp tục đếm những ngày sinh nhật tương lai của đảng, và xác của con khủng long ấy sẽ tiếp tục gây băng hoại toàn diện cho bao thế hệ.



(1) Mượn ý từ bài thơ "Bộ xương khủng long" của nữ thi sĩ Ba Lan Wislawa Szymborska.










.

12.4.16

Hoàng Văn Chí - Pháp thuật thần kỳ


Trần Quốc Việt dịch





Người Khờ Me giải thích sức mạnh và sự tàn bạo của con hổ qua một truyền thuyết họ kể như sau:

Ngày xưa có vị vua rất giàu có và được thần dân rất kính trọng. Trong triều vua có bốn vị đại thần, thường được gọi là bốn trụ cột của ngai vàng và một nhà chiêm tinh tài ba được gọi là "con mắt của vua". Hoàng hậu đẹp như tiên và trên thế gian không có hoàng cung nào sánh bằng cung vua.

Nhưng vua và các đại thần trong lòng lúc nào cũng âu lo. Họ luôn luôn sợ các nước lân bang mạnh hơn cuối cùng sẽ xâm chiếm vương quốc, vì trong trường hợp bị xâm lăng họ không có phép thần cần thiết để đánh bại lại nước xâm lược.

Ngày nọ, nhà vua nảy ra ý định đi đến Takkasila để trở thành môn đệ của bậc thầy thông thái Disapa Moka. Vua bày tỏ ý định của mình với hoàng hậu cùng với các vị đại thần. Hoàng hậu ngỏ ý muốn được đi theo với vua, bốn vị đại thần và nhà chiêm tinh cũng bày tỏ ý nguyện như thế. Nhà vua nghĩ ngợi rồi đồng ý. Vào buổi sáng đẹp trời vua và đoàn tùy tùng rời vương quốc để đi tìm phép thần.

Sau bảy ngày đi đường, họ đến Takkasila và đi thẳng đến nhà Disapa Moka. Bậc thầy thông thái đón tiếp họ và dạy họ nhiều bí quyết.

Khi học xong, vua tạ ơn thầy, rồi từ biệt thầy để lên đường cùng với đoàn tùy tùng trở về nước.

Nhưng không may một chuyện không hay đã xảy ra. Nhà vua và những người tùy tùng bị lạc giữa một khu rừng lớn, và đến ngày thứ mười họ không còn đủ lương thực. Họ sẽ bắt đầu phải chịu đói. Lúc ấy nhà vua hỏi nhà chiêm tinh:

"Chúng ta giờ đây đang bị vây bủa ở giữa rừng rậm trùng điệp đến nỗi chúng ta không thể vượt rừng được vì không có đường đi, và chúng ta sẽ đói vì chúng ta không còn lương thực nữa. Vậy khanh có cách gì cứu chúng ta thoát khỏi tai họa này?"

"Tâu Hoàng thượng", nhà chiêm tinh đáp, "chúng ta bây giờ có dịp thực hành pháp thuật thần kỳ mà thầy đã dạy chúng ta, nhờ pháp thuật này chúng ta biến thành một con thú rừng. Lúc ấy chúng ta có thể băng xuyên qua rừng rậm dễ dàng và ăn các con thú nhỏ để sống vì lúc đó chúng ta sẽ tự biết cách săn mồi. Rồi khi chúng ta đến gần đồng bằng chúng ta sẽ biến trở lại thành người."

Vua, hoàng hậu, và bốn đại thần không ngớt lời khen ngợi cao kiến của nhà chiêm tinh.

Vua lúc đấy mới hỏi mỗi người đi theo muốn biến thành bộ phận nào của con thú. Bốn đại thần muốn hóa thành bốn móng vuốt thú; nhà chiêm tinh thích biến thành đuôi thú, hoàng hậu chấp nhận biến thành thân thú. Đầu thú dành cho nhà vua.

Sau khi xếp đặt mọi sự xong, họ đồng thanh đọc thần chú họ đã học được, và tức thì họ biến thành con hổ rất lớn. Hổ ngay lập tức lao đi đuổi theo nai.

Điều không may là khi biến thành hổ những lữ khách đáng kính trọng của chúng ta chẳng còn tưởng đến chuyện về lại quê quán cũ. Chính điều này đã khiến họ đánh mất lương tâm con người.

Truyền thuyết rất sâu sắc này khiến tôi nhớ lại lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Cách đây hai mươi năm, một số thanh niên Việt Nam thông minh nhất và hoài bão nhất, trốn sang Nga với nhiệt huyết muốn theo học khoa học cách mạng ở đấy và ấp ủ hy vọng cao quý rằng học xong họ sẽ trở về nước giải phóng đồng bào mình ra khỏi ách nô lệ và đô hộ. Rồi khi trở lại Việt Nam đối diện với muôn vàn khó khăn, họ dùng đến pháp thuật thần kỳ họ đã học được ở Mạc Tư Khoa, tức chiến lược bôn-sê-vích.

Qua đấy họ lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam, áp dụng cuộc đấu tranh giai cấp, tàn sát phú nông, tiêu diệt trung nông và tiểu tư sản thành thị, và quàng ách nô lệ lên vô sản và trí thức.

Sau khi đã nếm mùi máu cuối cùng họ trở nên khát máu và, giống như con hổ trong truyền thuyết, họ bây giờ không thể sống nếu không sát hại nhiều người hay gây ra bao tội ác. Họ không còn quan tâm đến hạnh phúc của nhân dân Việt Nam, những người mà ngày xưa họ rất quan tâm và lo lắng, và giống như vị vua và các quan đại thần ở trên, các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam đã mất hết mọi tình cảm của con người. Còn lại trong lòng họ chỉ là sự tàn bạo của con hổ.

Nguyễn Ái Quốc, cách đây 30 năm không có nhiệt tình khác ngoài tinh thần đân tộc, sau khi áp dụng phép thuật thần kỳ ông học được từ Stalin, ông đã biến thành Hồ Chí Minh, con hổ khủng khiếp của rừng thẳm Bắc Bộ đã tiêu diệt hàng triệu nạn nhân.

*

Hoàng Văn Chí (1913-1988) là học giả nổi tiếng chuyên viết về chế độ cộng sản ở Miền Bắc Việt Nam. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc và Từ thực dân đến cộng sản - Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam (tiếng Anh).

Dịch từ tác phẩm tiếng Anh "The Fate of The Last Viets" của Hoàng Văn Chí, nhà xuất bản Hoa Mai, Saigon 1956, trang 9-12

Nguồn: Vietnam Center and Archive, Texas Tech University

Hoàng Văn Chí- Số phận của những người Việt cuối cùng


Trần Quốc Việt dịch



 Sau khi ký kết Hiệp định Geneva vào năm ngoái, một triệu người Việt Nam yêu chuộng tự do đã tràn qua vĩ tuyến 17 để thoát khỏi chế độ cộng sản ở Miền Bắc Việt Nam. Những người tỵ nạn thường cảm thấy phải kể cho nhân dân Miền Nam nghe những chuyện khủng khiếp mà họ đã chứng kiến dưới ách cai trị cộng sản. Như vậy, một triệu người đã tiết lộ hơn một triệu tội ác của CSVN.

Họ kể rằng chỉ trong một tháng, những người cộng sản đã giết hơn 90.000 người chỉ riêng trong một tỉnh, tỉnh Quãng Ngãi. Cuộc tàn sát dã man này đã tiêu diệt gần như 18% toàn bộ dân số tỉnh, và cả tỉnh chít khăn tang. Những người tỵ nạn cũng tiết lộ rằng hàng trăm ngàn người cả nam lẫn nữ đã bị sát hại ở Miền Bắc Việt Nam trong cái mà những người cộng sản gọi là "cuộc cách mạng nông nghiệp", và gần một triệu người bị cô lập và bỏ đói. Chưa bao giờ trước đây, suốt trong lịch sử 4000 năm, người Việt Nam lại chịu một tai họa khủng khiếp đến như thế.

Phải chăng cuộc tàn sát bừa bãi những người dân vô tội này là tội ác lớn nhất của CSVN?

Những người khác đã kể lại rằng CSVN áp đặt lên nông dân "thuế nông nghiệp" đánh lên đến 50% vào số lúa thu hoạch của họ, khiến 10 triệu người lâm vào cảnh bữa đói bữa no. Có lẽ tội ác bỏ đói dần dần 10 triệu người còn lớn hơn cuộc thảm sát tức thì một triệu người.

Nhiều người tỵ nạn khác kể rằng Miền Bắc Việt Nam bây giờ chỉ là một quận nhỏ của Trung Cộng, giống như thân phận trước kia của Giao Chỉ, mà chỉ là một quận của nước Triệu Đà. Hiện nay, các "cố vấn" Trung Quốc chỉ huy và kiểm soát các hoạt động trong tất cả các lĩnh vực. Họ ra lệnh bằng tiếng Quan thoại, và phải nói qua những người thông dịch.

Trong lĩnh vực quân sự, có những "cố vấn" từ cấp tiểu đoàn lên đến cấp cao nhất. Trong chính trị, có những "cố vấn" đi sâu vào những làng nghèo nhất. Trong vấn đề kinh tế, người Trung Quốc bây giờ đang dạy rằng vì Việt Nam là nước nông nghiệp cho nên phải phát triển chỉ mình nông nghiệp thôi, còn người Trung Quốc phát triển công nghiệp. Trong địa hạt văn hóa, ca múa đều bắt chước theo điệu Trung Quốc; phim Trung Quốc được chiếu ở khắp mọi nơi, và các tư tưởng của "Bác Mao" đều phải được học tập không ngừng suốt ngày đêm.

Hồ Chí Minh đã dâng nước cho Mao Trạch Đông, như Mỵ Nương sau khi trao nỏ thần cho Trọng Thủy đã đặt nước mình dưới ách cai trị của Trung Quốc phong kiến. Như vậy, ở giữa thế kỷ hai mươi, lãnh thổ Miền Bắc Việt Nam chịu chung số phận như Giao Chỉ ngày xưa vào lúc khởi đầu kỷ nguyên của chúng ta.

Tội phản quốc chắc chắn là một tội ác còn nặng hơn tội giết người hay cướp bóc. Nhưng CSVN đã phạm một tội ác còn xấu xa hơn cả tội phản quốc, giết người hay cướp bóc.

Vào năm 1912, sau khi lật đổ triều đại nhà Thanh (Mãn Châu) và nhường chức Tổng Thống Trung Hoa Dân Quốc cho Viên Thế Khải, Tôn Trung Sơn sang viếng thăm Nhật Bản. Người lãnh đạo Quốc Dân Đảng Nhật Bản Ki Tsuyoshi Inukai thết tiệc khoản đãi nhà lãnh đạo lớn của Quốc Dân Đảng Trung Quốc. Giữa bữa tiệc, Ki Tsuyoshi Inukai hỏi Tôn Trung Sơn, "Tôi được biết ông đã có dịp qua Hà Nội, Việt Nam. Xin ông cho tôi biết ông nghĩ gì về dân tộc Việt Nam?" Tôn Trung Sơn đáp: "Người Việt Nam bản tính vốn nô lệ. Ngày xưa họ bị Trung Quốc đô hộ; ngày nay họ lại bị người Pháp đô hộ. Dân tộc ấy không có tương lai." 

Ki Tsuyoshi Inukai đáp, "Tôi không đồng ý với ông về điểm này và tôi cho ông biết tại sao. Từ sử xưa chúng ta biết đã từng có một trăm dân tộc tự trị sống trên khắp tất cả lãnh thổ ở phía nam sông Dương Tử. Những dân tộc này được gọi là Bách Việt. Chín mươi chín dân tộc Việt dần dần đã bị người Hán đồng hóa dưới triều của vua Hán Cao Tổ. Chỉ có một dân tộc, dân tộc Việt Nam, vẫn còn tồn tại và đã duy trì được bản sắc riêng của họ. Nước họ đã bị người nước ngoài xâm lược nhiều lần, nhưng cuối cùng dân tộc Việt Nam vẫn luôn luôn đánh đuổi được những kẻ xâm lược ra khỏi nước mình và giành lại được độc lập. Đúng là họ hiện nay bị người Pháp đô hộ. Họ chưa đuổi người Pháp đi được vì họ không thể sánh với người Pháp về vũ khí hay kiến thức khoa học. Nhưng tôi tin chắc chắn rằng dân tộc có thể duy trì được bản sắc văn hóa riêng của mình như dân tộc Việt Nam thì sớm muộn cũng giành lại được độc lập."

Tôn Trung Sơn đỏ mặt không trả lời. Ông hiểu Ki Tsuyoshi Inukai nói vậy là có thâm ý. Ông nhận ra ý chê khéo rằng ông, Tôn Trung Sơn, không tài giỏi bằng người Việt Nam. Ông chợt hiểu ra rằng Ki Tsuyoshi Inukai biết ông là người gốc tỉnh Quảng Đông, và dân tộc ông xưa kia là một trong những dân tộc Việt, nhưng đã bị đồng hóa từ rất lâu, rồi cuối cùng mất hết bản sắc văn hóa của mình.

Ngay khi tiệc tàn và Tôn Trung Sơn ra về, nhà chính khách Nhật Bản này gọi điện thoại mời tất cả học sinh người Việt Nam đang sống tại Tokyo đến nhà ông, và thuật lại cho họ nghe câu chuyện lý thú này. Ông thích thú và tự hào đã thắng nhà chính khách lớn của Trung Quốc trong cuộc tranh luận.

Trong những năm gần đây, sống trong vùng cộng sản kiểm soát ở Việt Nam, tôi đã thấy bằng chứng rõ ràng nhân dân Việt Nam ở nơi đấy đang bị "Hán hóa". Tôi nhiều lần tham dự các vụ hành hình và thấy dân chúng vỗ tay hoan hô khi những người bị kết án bị xử bắn. Tổ tiên chúng ta chưa từng bao giờ vỗ tay hoan hô bi kịch như thế.

Chính mắt tôi đã nhìn thấy những cán bộ cộng sản vào nhà những người bị phân loại là "địa chủ"- những người đã rơi vào cảnh bần hàn sau khi đóng góp quá nhiều cho Kháng chiến trong suốt tám năm chiến tranh - chỉ để tịch thu lọ cà nhỏ, hay vài bộ áo quần rách tả tơi, và giải họ đi bêu riếu khắp làng trên xóm dưới sau khi đã "đấu tố" họ rồi cuối cùng giết chết những nạn nhân đáng thương này.

Nhìn thấy cảnh người ta phạm tội giết người chỉ để cướp lấy những thứ quá nhỏ mọn này khiến tôi nhớ đến vụ cướp xảy ra khi tôi ở Vân Nam, Trung Quốc. Một người đang đi trên con đường quê vắng vẻ chợt thấy một người dáng khả nghi đang đi theo sau mình. Ông sợ gã ấy tưởng ông có nhiều tiền vì hai túi quần ông căng phồng, rồi biết đâu gã sẽ giết ông để cướp của. Nghĩ vậy, ông liền quay người lại nói, "Tôi chẳng có tiền nong gì, tôi chỉ có hai trái dưa trong túi đây. Vậy chúng ta hãy chia xẻ với nhau nhé; tôi giữ một trái, còn anh có thể giữ một trái." Tên cướp đâm ông rồi cướp lấy hai trái dưa.

Tại Miền Bắc Việt Nam, CSVN đã bỏ đói và giết rất nhiều người dân vì cái "tội" họ có mức sống trên trung bình, nghĩa là nói họ còn may mắn khi có ít nước mắm để ăn với cơm. Và thế là họ bị tịch thu tất cả tài sản - mà tài sản của họ thường chỉ có mấy tượng thờ cúng sơn son thếp vàng tuy không còn được dùng đến theo lệnh cấm tôn giáo của chế độ Hồ Chí Minh, nhưng vẫn được người dân cất giữ. Giết người để cướp lấy tượng thờ cúng không dùng của họ thì chẳng khác gì giết người vì mấy trái dưa nhỏ.

Một lần khác, trong một buổi kiểm thảo, tôi thấy nguyên cả lớp học sinh khóc hu hu khi một học sinh không chịu nhận bất kỳ tội lỗi gì trong thời gian mà mọi người đều phải tập trung vào việc tự phê.

Hồ Chí Minh đã khóc - Phạm Văn Đồng đã khóc - tất cả dân chúng đều phải khóc như người Trung Quốc Miền Nam khóc, phải cười như người Trung Quốc Miền Bắc cười, và phải "tàn ác như quân Nguyên".

Mọi người đều biết chỉ cách đây chưa tới năm năm, người Việt Nam đã không khóc và không cười như thế. Một ký giả người Anh, ông Norman Lewis, thăm viếng Việt Nam vào năm 1951 đã nhận xét trong sách của ông, "A Dragon Aparent" rằng "người Việt Nam trầm lặng, sống nội tâm, và hay mỉm cười." Ngày xưa người ta không cư xử như bây giờ. Chúng ta có thể tìm thấy bằng chứng trong các tác phẩm của Linh mục Dòng Tên, Borri, người sau khi đến Việt Nam vào năm 1622 đã nói, "... Tính tình thoải mái và đáng yêu này giúp họ sống hòa thuận với nhau. Tất cả họ đều đối xử thân thuộc với nhau như thể anh em, hay như những người trong gia đình... và hành động họ coi là bần tiện nhất là nếu mình có cái gì ăn, tuy ít ỏi đến đâu, mà không chia xẻ với tất cả mọi người chung quanh, tức mời tất cả hàng xóm mỗi người dùng một ít."

Một sự thay đổi lớn lao đã bắt đầu. Dân tộc Việt cuối cùng đang bị Hán hóa, đang chịu cùng số phận như chín mươi chín dân tộc Việt khác cách đây hơn hai ngàn năm.

Tôi ác lớn nhất của CSVN là họ đang tiêu diệt tận gốc rễ bản sắc văn hóa của nhân dân Việt Nam ở phía bắc vĩ tuyến 17. Họ quyết tâm xóa Việt Nam ra khỏi bản đồ nhân chủng học. Tương lai của những người Việt cuối cùng đang lâm nguy.

Tuy nhiên, tôi tin rằng Ki Tsuyoshi Inukai đúng và Tôn Trung Sơn sai. Nhân dân Việt Nam quyết tâm chống lại những người cộng sản tàn bạo. Dù sao, phải chăng một triệu người Việt Nam trong số họ đã không chạy thoát ra khỏi vùng Trung Quốc kiểm soát, ra đi không mang theo gì chỉ mang theo niềm tự hào và di sản văn hóa của mình?

*

Hoàng Văn Chí (1913-1988) là học giả nổi tiếng chuyên viết về chế độ cộng sản ở Miền Bắc Việt Nam. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Trăm hoa đua nở trên đất Bắc và Từ thực dân đến cộng sản-Một kinh nghiệm lịch sử của Việt Nam (tiếng Anh).

Dịch từ tác phẩm tiếng Anh "The Fate of The Last Viets" của Hoàng Văn Chí, nhà xuất bản Hoa Mai, Saigon 1956, trang 13-20

Nguồn: Vietnam Center and Archive, Texas Tech University

5.4.16

Alexander Tsipko - Tan mộng đường dài


Trần Quốc Việt dịch


Trong lịch sử nhân loại không dân tộc nào từng bị nô lệ bởi bao huyền thoại như dân tộc ta trong thế kỷ hai mươi. 

Chúng ta tưởng chúng ta gắn bó đời mình cho một sự thật cao quý, chỉ để nhận thức rằng chúng ta phó thác mình cho một huyễn tưởng trí tuệ mà không bao giờ có thể trở thành hiện thực. 

Chúng ta tưởng chúng ta là những người tiên phong đưa toàn thể nhân loại đến bến bờ tự do và hạnh phúc tinh thần, nhưng nhận ra rằng con đường chúng ta đi là con đường không đi về đâu.

Chúng ta tưởng xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Liên Xô là kỳ tích vĩ đại nhất của dân tộc ta, ngờ đâu chúng ta cố tâm tự hủy diệt mình. 

Chúng ta tưởng chủ nghĩa tư bản là một lão già bệnh hoạn bị kết án tử hình, nhưng hóa ra chủ nghĩa tư bản vẫn khỏe mạnh, cường thịnh. 

Chúng ta tưởng những người cùng lý tưởng sát cánh bên chúng ta biết ơn chúng ta đã giải phóng họ ra khỏi ách nô lệ tư bản, nhưng hóa ra bạn hữu và láng giềng chúng ta chỉ chờ cơ hội để trở lại nếp sống cũ của họ. 

Chúng ta tưởng nền công nghiệp quốc gia của chúng ta, được tổ chức như một nhà máy lớn, là thành tựu cao nhất của kho tàng kiến thức nhân loại, nhưng tất cả hóa ra chỉ toàn là sự xuẩn ngốc về kinh tế mà đã quàng ách nô lệ lên bao năng lực tinh thần và kinh tế của nước Nga. 

   Alexander Tsipko là nhà triết học chính trị Xô Viết 

Nguồn: 

Từ tạp chí Novy Mir số 4 (1990), trang 173-204. Được trích dẫn trong tác phẩm"The Soviet System: From Crisis to Collapse" của Alexander Dallin và Gail Warshofsky Lapidus, Westview Press xuất bản 1995, trang 283-84. Tựa đề của người dịch. 

4.4.16

Mark Brendle- Đạo đức luôn luôn cao hơn luật pháp


Trần Quốc Việt dịch


 Gần như cả nước Pháp đều đau buồn trước cái chết của Victor Hugo vào ngày 22 tháng Năm, 1885. Hai triệu người tham dự lễ tang trọng thể dành cho ông. Điều này một phần là nhờ danh tiếng và sự ái mộ mọi người dành cho ông với tư cách nhà văn viết tiểu thuyết, nhưng cũng nhờ vào quá trình hoạt động xã hội và chính trị của ông cũng như sự đóng góp của ông cho nền Đệ tam Cộng hòa Pháp. Đối với người Pháp, đặc biệt vào lúc ông mất, Hugo không chỉ là người nghệ sĩ rất quý hiếm của quốc gia, mà còn là biểu tượng quốc gia. Lý do chính cho biểu tượng này, như minh chứng rõ ràng nhất qua tiểu thuyết lịch sử Những người khốn khổ của ông, là sự nhiệt tâm của nhà văn với ý tưởng trật tự đạo đức thay thế trật tự của luật pháp. Hugo, giống như những người Pháp dân chủ, tin rằng luật chính quyền, cũng như luật tôn giáo, đều lệ thuộc vào luật đạo đức bất tử, phổ quát, và cao quý hơn. Cuộc xung đột giữa những trật tự này hình thành nên nền tảng của tiểu thuyết lớn nhất của ông.

Những người khốn khổ mở đầu với chân dung giám mục Myriel, một người đầy lòng trắc ẩn và sùng đạo hành xử theo ý thức đạo đức thiên phú của mình. Myriel là nền tảng của toàn bộ tác phẩm. Tấm gương của ông đặt cơ sở cho quan điểm đạo đức xuyên suốt tác phẩm, cũng như niềm tin của Valjean, mà cuộc đời của ông đã được Myriel cứu vào đầu tiểu thuyết. Đạo đức của Myriel đơn giản. Từ thiện, nhân ái, và can đảm: đây là những giáo lý của Myriel và thay vì giảng giải về những điều này, ông thể hiện chúng qua những hành động của mình. Ông sống rất đạm bạc và, như lần va chạm với Valjean cho thấy, ông là thà cho đi những đồ vật có giá trị của mình cho sự nghiệp cao quý hơn là giữ chúng làm của riêng.

Tuy nhiên, Myriel không phải là một giám mục tiêu biểu, hay thậm chí một người Cơ đốc tiêu biểu. Ông cũng chẳng phải tiêu biểu cho người Cơ đốc bình thường, vì Hugo không tin đạo Cơ đốc không thôi tạo ra đạo đức. Chân dung Myriel được khắc họa để chứng minh rằng đạo đức là ở trên và tách biệt với bất kỳ tôn giáo nào. Điều này phản ánh quan điểm của Hugo về vấn đề ấy. Người ta biết ông đã từng nói, "Tôn giáo qua đi, nhưng Chúa ở lại." Như vậy, trong phần mở đầu, Hugo đặt ra sự tách rời giữa đạo đức và tôn giáo.

Phần lớn tiểu thuyết tập trung hoàn toàn vào sự rạn nứt giữa luật thế tục và trật tự đạo đức. Điều này dễ hiểu, vì nước Pháp trong thời Hugo đã đối mặt trực diện với hoàn cảnh nan giải này, sau thời kỳ cách mạng Pháp mà suốt trong thời gian ấy quyền thiêng liêng của các quân vương bị chất vấn và cuối cùng bị lên án. Nhưng sự suy đồi của ngay cả hệ thống pháp lý với mục đích rất cao đẹp ấy đã bị phơi bày ngay sau đó theo sau cuộc thanh trừng và khủng bố của Robespiere, rồi chung cuộc chính ông cũng bị lật đổ và hành hình. Nước Pháp trượt dài giữa quân chủ, dân chủ, và vô chính phủ cho nên nhiều người tìm kiếm một hình thức chính quyền dựa trên đạo đức và nhân đạo.

Hoàn cảnh nan giải của Jean Valjean, nhân vật chính của Những người khốn khổ, tức phải trộm cắp để nuôi gia đình mình, là vấn đề đạo đức tiêu biểu. Phải chăng ta đúng khi bằng mọi giá phải nuôi gia đình của mình hay hành vi trộm cắp là sai trong bất kỳ hoàn cảnh nào? Trong tiểu thuyết của Hugo, cũng như trong đời thực, lời đáp phụ thuộc vào người mà ta hỏi. Nếu ta hỏi thanh tra cảnh sát Javert, nhân vật tiểu thuyết tiêu biểu cho luật pháp và phán xét thế tục, ta sẽ được bảo rằng rõ ràng trộm cắp là đáng khiển trách về mặt đạo đức trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Tuy nhiên, nếu ta hỏi ý kiến giám mục Myriel, thì có thể rằng lợi ích cứu người khỏi chết đói quan trọng hơn tội trộm cắp.

Nếu Javert tượng trưng cho Luật pháp và Myriel tượng trưng cho Đạo đức, thì Jean Valjean, và về mức độ nào đấy Fatine, là người bình thường, bị mắc kẹt giữa hai bên. Cuộc đời của Valjean, từ tội phạm, thành người tù, trở lại tội phạm, và cuối cùng thành người tốt, là cuộc đời bị chi phối từ bên ngoài bởi luật pháp và từ bên trong bởi đạo đức. Sau khi gặp giám mục Myriel, Valjean trải qua đêm tăm tối của tâm hồn, giữa khuya ngồi dậy thao thức, biết rằng trộm đồ của Myriel là sai trái, nhưng ông vẫn cứ làm. Đây là mầm đạo đức nội tâm của ông. Từ đấy trở đi, dù ông cố gắng tiếp tục sống đời tội phạm, nhưng lòng ông đã bắt đầu "hướng thiện".

Tuy nhiên, luật pháp không thừa nhận sự thay đổi rất lớn lao trong tâm hồn con người để xóa đi các tội hiện tại. Sự thay đổi rất lớn lao ấy chính là Valjean trở thành người mới, một người thành đạt và nhân ái, luôn luôn gắng hết sức mình theo gương giám mục Myriel. Nhưng thanh tra Javert không thể nào chấp nhận sự vi phạm luật pháp, dù dưới bất kỳ hình thức nào hay trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Xuất phát từ nguyên tắc, ông truy lùng Valjean vào tận cuộc đời mới của Valjean, và đuổi theo Valjean không ngừng trong suốt tiểu thuyết. Javert thấy công lý là công lý thế tục, trật tự đạo đức là trật tự pháp lý, và con người phải trả giá cho tội của mình theo luật pháp mà chẳng lưu tâm đến bất kỳ những nhân tố giảm tội nào.

Hugo khắc họa Javert dưới ánh sáng hơi tàn nhẫn, thể hiện sự thương cảm không có ở ông mà có ở các nhân vật ông truy đuổi. Tuy nhiên, Hugo khắc họa như thế để chứng minh luật pháp có thể sai lầm. Javert, giống như chính luật pháp, thiếu nhân tính. Ông không thể nào cảm thông với hoàn cảnh của người khác hay cảm thấy thương xót cho họ cho tới cuối tiểu thuyết, khi nhận thức bất ngờ của ông về nhân tính làm thế giới quan của ông sụp đổ và khiến ông quẩn trí rồi rốt cuộc tự tử. Chỉ con người mới có thể nhân đạo và ai đặt luật pháp trên nhân tính của mình tự tước đi món quà quý giá nhất trong đời.

Valjean, khi đứng trước cảnh một người vô tội có thể bị treo cổ thay mình, liền từ bỏ mọi thứ để cứu mạng kẻ lạ này. Cảnh này, rất giống Tội ác và Trừng phạt của Dostoevsky, chứng tỏ tội lỗi là hiện tượng nội tâm, không phải là chức năng của hệ thống tư pháp. Tội lỗi nội tâm này là một biểu lộ khác nữa về đạo đức bẩm sinh của con người.

Truyện Myriel-Javert-Valjean là phần quan trọng của tác phẩm. Những nhân vật khác cũng tiêu biểu cho nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc đấu tranh này. Gia đình Thernadier là những kẻ vô đạo đức, tội phạm, và bị xã hội ruồng bỏ. Tuy nhiên ngay cả từ gia đình đáng ghê tởm này vẫn có Eponine, người mà cuối cùng có thể thực hiện một hành động hy sinh quên mình, qua đấy, đối với Hugo, chứng tỏ rằng đạo đức là bẩm sinh, chứ không phải là điều ta có thể học. Marius và Cossete là tương lai. Marius nhân danh đạo đức chống lại chính quyền còn Cossette nhân danh tình yêu chống lại hận thù. Qua phân tích một cách chi tiết ta có thể thấy rằng mỗi phần của tiểu thuyết đều vận vào hoàn cảnh đạo đức nan giải này. Nhưng, xung đột giữa Myriel-Valjean và Javert phản ánh nội dung của toàn bộ tác phẩm.

Tiểu thuyết toàn diện này của Hugo bao gồm nhiều nhân vật cũng như nhiều khía cạnh của vấn đề xung đột giữa đạo đức và luật pháp thế tục. Ngay cả những đoạn được xem bình thường như mô tả đường cống ngầm Paris độc giả cũng có thể đọc và hiểu theo nghĩa bóng trong ngữ cảnh này. Những trang mô tả nổi tiếng của nhà văn về trận chiến Waterloo, quy sự thua trận của Napoleon do một con kênh bình thường trên mặt đất, chứng tỏ ngay cả nhà lãnh đạo thế tục tài ba nhất ( một hoàng đế tự phong lúc ấy) có thể bị lật đổ bởi những sức mạnh đơn giản nhất.

Ta có thể đọc Những người khốn khổ như ta đọc Ba người lính ngự lâm, một truyện giải trí đầy lãng mạn, hành động, và bí ẩn. Nhưng tác phẩm và tư tưởng của Hugo sâu sắc hơn thế nhiều; Những người khốn khổ là tác phẩm về triết học và đạo đức hoàn toàn giá trị như tác phẩm là tiểu thuyết, và chính tài năng kết hợp được cả hai khía cạnh này là lý do Những người khốn khổ vẫn tiếp tục cuốn hút tâm hồn độc giả và cũng là lý do ngày nay, một trăm hai mươi năm sau, Hugo vẫn còn nổi tiếng như ông đã nổi tiếng lúc đương thời.

Mark Brendle là tác giả người Mỹ

Nguồn:

Từ Barnes & Noble Community Blog năm 2010. Nguyên tác tiếng Anh "Morality and Law in Victor Hugo's Les Miserables". Tựa đề của người dịch là lời trích của nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn.