23.11.11

Theodore Dalrymple- Thương yêu nào cho người

Trần Quốc Việt dịch

Mùa hè 2001

Hầu như mỗi trí thức đều khẳng định trong lòng họ chỉ nghĩ đến phúc lợi của con người, và đặc biệt phúc lợi của người nghèo: nhưng vì không có vụ giết quá nhiều người nào diễn ra mà thủ phạm lại không tuyên bố rằng họ hành động vì lợi ích của nhân loại, nên tình cảm bác ái có thể thể hiện rõ ràng qua muôn vàn cách.

Hai tác giả lớn người Âu Châu vào thế kỷ thứ mười chín, Ivan Turgenev và Karl Marx, minh họa rất rõ ràng sự đa dạng này. Cả hai đều cùng sinh vào năm 1818 và cùng mất vào năm 1883, và cuộc đời của họ còn giống nhau gần như một cách kỳ lạ về nhiều điểm khác. Tuy nhiên cuối cùng họ có cái nhìn rất khác nhau, thực ra xung khắc tưởng chừng như hai thái cực khác hẳn, về cuộc đời và khổ đau của kiếp người. Turgenev thấy con người là những cá nhân luôn luôn được tạo hoá ban cho ý thức, tính cách, tình cảm, cùng những điểm mạnh và yếu về đạo đức; Marx thấy họ là những bông tuyết trong cơn tuyết lở, là những trường hợp của các quy luật chung, là chưa hẳn là người vì bị hoàn cảnh chi phối hoàn toàn. Nơi Turgenev thấy con người, Marx thấy giai cấp; nơi Turgenev thấy dân chúng, Marx thấy Nhân dân. Hai cách nhìn đời này tiếp tục tồn tại cho đến thời của chúng ta và vẫn ảnh hưởng sâu sắc, dù tốt hay xấu, đến các giải pháp chúng ta đưa ra cho các vấn đề xã hội.

Những điểm tương đồng trong nghề nghiệp giữa hai người khởi sự từ việc họ cùng theo học trường Đại học Berlin trong cùng thời gian, tại đây cả hai chịu ảnh hưởng sâu sắc -đến độ say mê-triết học biện chứng Hegel đang thịnh hành. Do thế, cả hai đều tính trở thành giáo sư dạy triết ở trường đại học, nhưng không có ai từng giảng dạy. Họ có nhiều người quen chung ở Berlin, trong đó có Mikhail Bakunin, nhà quý tộc Nga về sau trở thành nhà cách mạng theo chủ trương vô chính phủ, triết gia Bruno Bauer, và nhà thơ quá khích Georg Herwegh. Họ có điểm chung là chẳng màng đến tiền bạc, có lẽ vì cả hai đều sinh ra trong cảnh giàu sang nên chẳng bao giờ lo âu đến chuyện tiền nong. Lúc bắt đầu theo nghiệp cầm bút cả hai đều là những nhà thơ lãng mạn, tuy thơ của Turgenev được xuất bản nhiều hơn thơ của Marx.

Ảnh hưởng và thị hiếu văn chương của hai người đều giống nhau. Mỗi người đều đọc nhiều tác phẩm cổ điển La tinh và Hy Lạp; mỗi người đều có thể trích dẫn Shakespeare bằng tiếng Anh. Cả hai đã học tiếng Tây Ban Nha để đọc Calderón. (Turgenev, tất nhiên, học tiếng này để thể hiện qua ngôn ngữ bản xứ mối tình lớn nhưng không toại nguyện trong đời ông, nữ danh ca opera Pauline Viardot.) Cả hai ngưòi đang ở Brussels vào lúc nổ ra cuộc cách mạng năm 1848 chống lại Quân chủ tháng Bảy tại Pháp, và cả hai rời khỏi nơi đấy để quan sát những biến cố ở nơi khác. Người bạn Nga thân nhất của Turgenev, Pavel Annenkov, người được ông đề tặng nhiều tác phẩm, biết Marx rất rõ ở Brussels và đã tả những điều không hay về Marx.

Cảnh sát chìm theo đõi cả hai người, và cả hai đều sống phần lớn cuộc đời trưởng thành, và đều mất, trong cảnh lưu vong. Mỗi người đều có con riêng với người giúp việc: ở Turgenev đó là lầm lỡ tuổi trẻ, ở Marx đó là lầm lỗi lúc đã đứng tuổi. Tuy nhiên, khác với Marx, Turgenev thừa nhận con và cấp tiền nuôi dưỡng.

Người ta biết cả hai đều cảm thông với những phận người bị chà đạp và bị áp bức. Nhưng cho dù họ rất giống nhau ở nhiều điểm về giáo dục và kinh nghiệm, bản chất lòng trắc ẩn ở mỗi người lại khác nhau như một trời một vực: vì trong khi ở người này lòng trắc ẩn, bắt nguồn từ đau khổ của những cá nhân, là thực thì ở người kia lòng trắc ẩn, trừu tượng và chung chung, lại là không thực.


Để thấy sự khác biệt ấy, chúng ta hãy so sánh truyện "Mumu" vào năm 1852 của Turgenev với Tuyên ngôn Cộng sản của Marx được viết trước đó bốn năm. Cả hai tác phẩm, hầu như dài bằng nhau, đều ra đời trong hoàn cảnh khó khăn: Marx, do hoạt động cách mạng nên bị trục xuất khỏi nước Pháp, đang ở Brussels, nơi ông chẳng muốn ở và cũng chẳng có thu nhập gì, còn Turgenev đang bị quản thúc ở Spasskoye, điền trang hẻo lánh của ông ở phía tây nam Mạc Tư Khoa, vì đã viết Bút ký người đi săn, một tác phẩm bị xem là phá hoại khi lên án kín đáo chế độ nông nô. Viên chức kiểm duyệt cho phép tác phẩm được xuất bản đã bị sa thải và bị tước tiền hưu.

Truyện "Mumu" lấy bối cảnh ở Mạc Tư Khoa vào thời nông nô. Gerasim là nông nô có vóc người và sức mạnh phi thường nhưng bị câm và điếc, được chủ mình, một địa chủ già và khắc nghiệt, đưa từ quê ra thành phố. Vì không nói ra lời được Gerasim đành vụng về tán tỉnh một thiếu nữ nông dân tên Tatyana, người cũng thuộc quyền sở hữu của cùng địa chủ. Song, địa chủ, một người đàn bà góa tính tình chua ngoa và cay nghiệt, tự nhiên vô cớ, quyết định gả quách Tatyana cho một nông nô khác của bà, một người thợ vá giày hay say sưa tên Kapiton, qua đấy làm vỡ tan bao hy vọng của Gerasim.

Không bao lâu sau, Gerasim thấy một con chó con suýt bị chết đắm ở một dòng suối đầy bùn. Hắn cứu con chó và đem về nuôi nấng săn sóc cho đến khi nó khôn lớn và khoẻ mạnh. Hắn gọi nó là Mumu, đó là tiếng gần giống tiếng người nhất mà hắn có thể bật ra được, và mọi người làm công cho địa chủ ở Mạc Tư Khoa liền gọi con chó theo tên ấy. Gerasim càng ngày càng rất yêu thích con chó, người bạn chân thành duy nhất của mình, và hắn cho con chó sống chung với mình trong căn phòng nhỏ, và nó lẽo đẽo đi theo hắn khắp mọi nơi như hình với bóng. Con chó cũng thương hắn vô cùng.

Ngày nọ nhìn qua cửa sổ bà địa chủ thấy Mumu liền sai người mang con chó đến. Nhưng Mumu sợ bà nên nhe răng gầm gừ. Bà bỗng chợt thấy ghét con chó bèn ra lệnh tống khứ nó đi cho khuất mắt. Một người giúp việc của bà đem con chó đi bán cho người lạ. Gerasim cuống cuồng lên tìm kiếm chó khắp nơi nhưng không thấy. Tuy nhiên, Mumu lần tìm được đường trở về lại với hắn khiến hắn vui mừng khôn xiết.

Không may vào tối hôm sau Mumu lại cất tiếng sủa khiến bà địa chủ thức giấc. Tin rằng mình khổ sở đau đớn do sự mất ngủ này, bà ra lệnh lần này phải giết con chó. Những người giúp việc cho bà đến gặp Gerasim và ra dấu để truyền đạt mệnh lệnh của chủ. Gerasim, nhận ra kết cục tất yếu, hứa sẽ tự tay mình giết chó.

Sau đây là hai trích đoạn cảm động đến tưởng như đau xé lòng. Ở trích đoạn đầu, Gerasim đưa Mumu đến quán rượu trong vùng: "Trong quán rượu họ biết Gerasim và hiểu được ngôn ngữ ra dấu của hắn. Hắn gọi xúp cải bắp và thịt rồi ngồi đặt hai tay trên bàn. Mumu đứng kế bên cạnh ghế, đưa đôi mắt tinh anh vô tư nhìn hắn. Bộ lông của nó sáng ửng lên: rõ ràng bộ lông nó mới vừa được chải chuốt mượt mà. Họ mang ra cho Gerasim món xúp cải bắp. Hắn bẻ vụn bánh mỳ cho vào xúp, cắt thịt ra từng miếng nhỏ rồi đặt bát xúp xuống dưới nền nhà. Mumu bắt đầu ăn món ăn ngon thường lệ, cái mõm của nó tưởng chừng như không chạm đến thức ăn. Gerasim nhìn chăm chú nó thật lâu; bất ngờ từ khoé mắt hắn ứa lăn ra hai giọt nước mắt nằng nặng: một giọt rơi trên trán con chó, giọt kia rơi vào súp. Hắn lấy hai tay che mặt. Mumu ăn hết nửa bát xúp rồi vừa bỏ đi vừa liếm lông. Gerasim đứng lên, trả tiền bát xúp rồi rời quán."

Hắn đưa Mumu đi xuôi về hướng sông, dọc đường nhặt vài cục gạch. Đến bờ sông, hắn xuống thuyền với Mumu rồi chèo ra thật xa.

"Cuối cùng vẻ mặt buồn thảm cay đắng, Gerashim ngồi thẳng lên,vội vã lấy dây buộc những viên gạch lại với nhau thành cái thòng lọng, tròng nó quanh cổ của Mumu, bế con chó lên trên mặt nước, nhìn nó lần cuối cùng ...Đầy tin tưởng và chẳng sợ hãi nó nhìn hắn và vẫy nhẹ đuôi. Hắn nhăn mặt quay đi rồi buông ra ...Gerashim không nghe gì, không nghe tiếng rên rỉ của Mumu khi rơi xuống, hay tiếng rơi tõm nặng nề trên mặt nước; đối với hắn ngày ồn ào nhất vẫn là ngày yên ắng chẳng mảy may âm thanh gì, còn hơn cả đêm yên tĩnh nhất có thể không có tiếng động nào đối với ta; rồi khi hắn mở mắt ra lại những làn sóng nhỏ vẫn luôn luôn chảy vội vã trên mặt nước, như thể đuổi bắt nhau, như thể chúng vẫn luôn luôn vỗ nhẹ vào mạn thuyền, và xa tít đằng sau một hay hai vòng tròn lớn đang lan toả vào bờ."

Chúng ta biết sau khi Mumu chết Gerashim bỏ trốn về lại làng cũ, nơi hắn làm việc quần quật ngoài đồng như một nô lệ: nhưng từ đấy hắn không bao giờ gắn bó thân thiết với người hay chó nữa.

Khi nhà cách mạng Nga lưu vong Alexander Herzen, vốn là người uyên bác thuộc dòng dõi quý tộc, đọc truyện này, ông giận run lên. Thomas Carlyle khẳng định đây là truyện xúc động nhất ông đã từng đọc. Còn John Galsworthy khi bàn về truyện đã thốt lên "chưa từng có ai viết ra được những lời xúc động nao lòng người hơn thế để lên án sự độc ác hà khắc." Và một người bà con của Turgenev, người được tác giả đọc "Mumu" cho, sau này viết, "Phải là một người rất tốt và nhân ái lắm mới thấu hiểu và diễn đạt được cảnh ngộ và bao đau đớn ở trong lòng người khác như thế."

Truyện có tính tự sự, và địa chủ cay nghiệt, xét nét, độc đoán, và ích kỷ ấy chính là mẹ tác giả, Varvara Petrovna Turgeneva. Chồng mất sớm, bà thành lãnh chúa tuyệt đối ở điền trang của mình. Nhiều câu chuyện về sự độc ác của bà vẫn còn lưu truyền đến chúng ta, tuy rằng không phải tất cả đều thật: chẳng hạn, bà đày hai nông nô lên Siberia chỉ vì cái tội không cúi đầu chào bà khi bà đi ngang qua - vì họ không thấy bà. Còn nhân vật Gerasim thật sự ngoài đời là một nông nô bị câm và điếc tên Andrei thuộc về Varvara Petrovna.

Rõ ràng "Mumu" là tiếng kêu bi thương phẫn uất chống lại sự thực thi quyền lực độc đoán giữa người với người, nhưng sự lên án ấy không nhằm mục tiêu chính trị. Dù sự lên án ấy hiển nhiên nhắm vào chế độ nông nô, nhưng truyện không ám chỉ rằng tàn nhẫn là đặc quyền chỉ riêng của những địa chủ phong kiến, và rằng giá như chế độ nông nô bị xoá bỏ đi thì ta không còn cần thiết phải cảnh giác với sự độc ác như thế. Nếu quyền lực là một đặc trưng mãi mãi hiện diện trong các mối quan hệ của con người - dẫu chắc chắn chỉ có tuổi mới lớn và những loại trí thức nào đấy, trong đó có cả Marx, mới mơ tưởng quyền lực tiêu vong - thì "Mumu"là lời kêu gọi bất tử thúc giục ta nên nhân ái, tự chủ, và công bằng khi thực thi quyền lực. Vì lẽ ấy 140 năm sau khi xoá bỏ chế độ nông nô ở Nga "Mumu" vẫn không mất đi sức mạnh làm lay động lòng người; dù truyện diễn ra ở nơi chốn cụ thể vào thời gian cụ thể, truyện cũng mang tính phổ quát.

Khi đưa ra quan điểm chung của mình, Turgenev không gợi ý rằng các nhân vật của ông hoàn toàn không phải là những cá nhân với những đặc điểm riêng của mỗi người.Ông không xem họ chỉ là những thành viên của tập thể hay giai cấp, do bị áp bức nên hành động theo những cách đã định trước tựa như những tàu điện luôn luôn chạy trên những đường ray định sẵn: cho nên nhận xét tinh tế của ông về nhân vật thậm chí hèn mọn nhất vẫn là lời chứng thực có thể hùng hồn nhất cho niềm tin của ông về nhân tính của họ. Tuy là nhà đại quý tộc, và quen biết với những tâm hồn lỗi lạc nhất của Châu Âu, ông chẳng khinh khi xem thường người nông dân hèn mọn nhất, ngưòi mà không thể nghe và nói được. Những người nông dân bị đè nén của Turgenev hoàn toàn là những con người, được tạo hoá phú cho ý chí tự do và khả năng biết chọn giữa thiện và ác.

Ông tương phản tình thương dịu dàng Gerasim dành cho Mumu với tính tình khó chịu ích kỷ của địa chủ. "Thằng câm đó mà cũng có chó sao?" bà hỏi, mà không chợt nghĩ thoáng qua trong đầu là biết đâu "thằng câm đó" cũng có niềm vui và yêu thương riêng của hắn. "Ai cho phép nó nuôi chó trong sân nhà tao?"

Turgenev không gợi ý rằng quyền lực gần như tuyệt đối của bà địa chủ goá chồng dù gì nữa cũng đáng mơ ước cho bao người. Tuy mộ đạo theo cách hời hợt và hay răn dạy kiểu kẻ cả, bà coi Chúa là kẻ hầu, chứ không phải là chủ, và bà không thừa nhận bất kỳ giới hạn nào, dù của Chúa hay của luật pháp, cho sự thực thi ý muốn của mình. Kết quả là bà đau khổ, tâm trạng lúc nào cũng khó chịu, không bao giờ được vừa lòng, và sinh ra bệnh tưởng. Những ý muốn thất thường của bà dù có được thoả mãn nhưng vẫn không mang lại cho bà niềm vui, chính xác chỉ vì đó là những ý muốn thất thường chứ không phải là những mong muốn thật sự; và -vì quen với sự phục tùng, và vì tin mình xứng đáng nhận được sự phục tùng - nên khi gặp phản kháng, dù phản kháng của thời gian, bà thấy không chịu đựng được.

Ví dụ, khi Mumu được đưa đến cho bà xem, bà địa chủ nói với nó bằng giọng vuốt ve, ngọt lịm nhưng khi con chó hờ hững không tỏ vẻ gì, bà liền đổi giọng ngay."Đưa nó đi cho khuất mắt! Đồ cái thứ chó nhỏ thấy phát tởm!" Khác với Gerasim chăm bẳm nuôi nấng nó với tất cả sự tận tuỵ dịu dàng, bà địa chủ lại muốn con chó phải yêu bà ngay lập tức, chỉ vì bà là người có quyền lực.

Quyền lực khiến bà trở thành dối trá và không có khả năng tự xét lại mình. Khi Gerasim biến mất sau khi dìm chết Mumu, "bà đùng đùng nổi giận, khóc lóc, ra lệnh dù xảy ra chuyện gì chăng nữa cũng phải tìm ra hắn, thề thốt rằng bà không bao giờ ra lệnh giết con chó rồi cuối cùng quay sang quở trách người quản gia." Bà chối bỏ trách nhiệm một cách trắng tợn không ngờ. Quyền lực làm cho con người đồi bại, Turgenev biết; và vì không chấp nhận bất kỳ hạn chế nào cho các ước muốn tàn nhẫn của mình nên hạnh phúc là điều không thể nào có được. Tuy nhiên, ông hiểu, không có chế độ xã hội nào sẽ loại bỏ hoàn toàn những nguy cơ này.

Turgenev cũng không tin rằng, do bị áp bức, nên những người dưới quyền của địa chủ trở thành cao thượng. Họ cũng mưu mô xảo trá và đôi khi còn tàn nhẫn vô tâm. Chỉ vì họ sợ sức mạnh thể chất của Gerasim nên họ mới không dám chế giễu hắn một cách quá đáng, và họ chẳng mảy may cảm thông với tình cảnh của hắn. Khi Gavrila, người quản gia của địa chủ, dẫn đầu đám nông nô kéo đến báo cho Gerasim biết hắn phải trừ khử cho được con chó, gã vừa đập mạnh cửa phòng Gerasim vừa kêu to "Mở cửa ra!" Từ bên trong vọng ra tiếng sủa nghèn nghẹn; nhưng không có tiếng trả lời." Tao bảo mày mở cửa ra!" gã lập lại.

"'Ông Gavrila Andreich ơi,' từ phía dưới Stepan nói vọng lên, ' Nó bị điếc sao nó nghe được.' Mọi người bật cười rộ."

Trong tiếng cười của họ không có lòng trắc ẩn, không có ở lúc đó và cũng không có ở bất kỳ lúc nào khác trong truyện. Ác độc đâu chỉ riêng người địa chủ mới có, và cảnh những nông nô đối xử tàn nhẫn với Gerasim luôn luôn gợi tôi nhớ lại một cảnh tượng ngày thơ ấu, khi tôi độ 11 tuổi. Có lần tôi đứng xếp hàng mua vé xem bóng đá - vào thời đó, vì những lý do giờ đây tôi không còn nhớ rõ, tôi say mê môn thể thao này. Hàng thì dài, phải chờ ít nhất đến hai tiếng đồng hồ. Một ông lão mù với cây phong cầm đi dọc lần theo hàng người, vừa đi vừa hát bản nhạc" Người đàn ông đánh bài thắng lớn ở Monte Carlo", trong khi người bạn đường với ông chìa cái mũ ra để xin tiền. Họ đi ngang qua đám mấy người trẻ thuộc tầng lớp lao động, bọn này có sẵn chiếc radio liền vặn nó thật to lên để át tiếng hát của ông lão. Cả đám thấy vẻ bối rối của ông liền cười vang lên còn người bạn đường không nói gì lặng lẽ dắt tay ông bước đi.

Không ai can thiệp hay nói cho đám thanh niên ấy biết họ đã xử xự thật tàn tệ; tôi quá hèn nhát nên chẳng dám nói năng gì. Nhưng trong cái cảnh tượng thoáng qua nhỏ nhoi ấy, tôi thấy con người luôn luôn có khả năng gây ra điều ác cho nhau, một khả năng vượt qua địa vị xã hội, giai cấp, hay giáo dục.

Nhiều năm về sau khi tôi hành nghề y trên một đảo ở Thái bình Dương một chuyện xảy ra càng khẳng định sâu sắc hơn bài học này. Kế bên bệnh viện tâm thần nhỏ có hàng rào lưới cao bao quanh sân là khu dành riêng cho người cùi. Khi chiều xuống, những người cùi xúm lại bên ngoài hàng rào bệnh viện để chọc ghẹo những người điên lúc họ được đưa ra sân đi dạo, vào những lúc này những người điên thường nhảy múa kỳ lạ và la to với những kẻ khuất mặt hành hạ họ.

Chiến thắng sự tàn nhẫn không bao giờ là chiến thắng cuối cùng, nên, giống như sự giữ gìn tự do, chúng ta cần phải mãi mãi cảnh giác. Và, như trong "Mumu", chúng ta cũng cần thực thi những mơ tưởng nhân ái.

Chuyển từ Turgenev sang Marx (dù Tuyên ngôn xuất hiện dưới tên của cả Marx và Engels, nhưng tác phẩm hầu như hoàn toàn do Marx viết), chúng ta bước vào một thế giới của đắng cay vô tận -chất chứa biết bao nhiêu oán thù, căm ghét, và khinh miệt - thay vì thương xót hay trắc ẩn. Đúng là, giống như Turgenev, Marx đứng về phía những kẻ dưới đáy, người không có gì, nhưng theo cách hoàn toàn ma quái. Nơi Turgenev hy vọng sẽ gợi cho chúng ta xử xự có tình người, Marx chỉ nhắm kích động bạo lực. Hơn thế nữa, Marx không cho phép ai được cạnh tranh với mình trên thị trường từ thiện. Ông khét tiếng là người chỉ trích kịch liệt tất cả những ai mong muốn cải cách thực tế: nếu giai cấp hạ lưu, thì họ thiếu sự đào tạo về triết học cần thiết để thấu hiểu những nguyên nhân của đau khổ; nếu giai cấp thượng lưu, thì họ đạo đức giả khi cố gắng duy trì "chế độ". Chỉ có mình ông biết được bí quyết biến ác mộng thành giấc mơ đẹp.

Thực ra bao đống xương Vô định mà tín đồ của ông đã chất cao ngất - đến hàng triệu nạn nhân cuối cùng -đã hiện ra lờ mờ trong Tuyên ngôn. Cuồng tín và chủ nghĩa toàn trị có sẵn trong tín điều được diễn đạt: "Những người cộng sản không lập ra một đảng riêng biệt đối lập với các đảng giai cấp công nhân khác. Họ không có lợi ích nào tách khỏi lợi ích của những người vô sản nói chung."

Nói cách khác, không cần thiết phải có các đảng khác, chứ đừng nói đến những cá nhân với những cá tính riêng dị biệt: thật vậy, vì những người Cộng sản thể hiện rất rõ ràng lợi ích của những người vô sản, cho nên bất kỳ ai chống lại những người Cộng sản, theo định nghĩa, ắt phải chống lại lợi ích của những người vô sản. Hơn nữa, vì những người Cộng sản " công khai tuyên bố rằng mục đích của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ tất cả trật tự xã hội hiện hành", từ đó suy ra rằng Lê nin và Stalin đã hoàn toàn đúng khi dùng bạo lực tiêu diệt những người đối lập. Và vì, theo Marx, tư tưởng mà người ta có đều được quyết định bởi địa vị của họ trong cấu trúc kinh tế của xã hội, cho nên nhân dân càng không cần thiết tuyên bố lòng căm thù của mình: hay nói cách khác, nhìn địa vị biết kẻ thù. Giết sạch tầng lớp phú nông Nga là ứng dụng trong thực tiễn nhận thức luận của Marx.

Khi ta đọc Tuyên ngôn, những tai ương cộng sản tưởng như từ trong tác phẩm tiếp nối hiện ra tựa như các bóng ma, chẳng khác gì những lời tiên tri định mệnh do các phù thuỷ phán ra trong vở kịch Macbeth. Ví dụ hãy đọc điều 8 và 9 trong chương trình Cộng sản (Điều thú vị là cũng có tất cả mười điều như trong chương trình của Chúa công bố trên Núi Sinai): "8. Bình đẳng trong trách nhiệm lao động. Thành lập các đạo quân công nghiệp, đặc biệt cho nông nghiệp. 9. Kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, tiến đến loại bỏ dần những mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn." Những ai đã trải qua chế độ của Pol Pot, và chương trình kế hoạch hoá đô thị kiểu trại lính của Ceausescu, qua đó san bằng làng mạc rồi thay thế bằng những khu hộ tập thể cao tầng hoàn tất dở dang nằm trơ trọi giữa cánh đồng, tất sẽ chẳng khó khăn gì nhận ra được cội nguồn đau khổ của họ.

Tuyên ngôn không nhắc gì đến cuộc đời cá nhân con người, ngoại trừ để phủ nhận tiềm năng của cuộc đời cá nhân ấy trong hoàn cảnh hiện tại. Đúng là Marx có nhắc đến tên một vài tác giả, nhưng chỉ để trút ra sự khinh bỉ theo kiểu rất Đức cùng những lời lẽ sỉ nhục họ.

Cho nên không lạ gì Marx chỉ nói về hai hạng người: giai cấp tư sản và vô sản. Đối với ông, những con người cá nhân chỉ là những bản sao, sự giống nhau giữa họ với rất nhiều người khác không phải do cùng có chung các gien, mà do cùng có chung các mối quan hệ với hệ thống kinh tế. Tại sao phải nghiên cứu một cá nhân khi ta biết cả Tập thể?

Đây không chỉ là sự tổng quát hoá duy nhất trong Tuyên ngôn rút toàn bộ dân số con người xuống thành những con số không: " Gia đình hiện nay, gia đình tư sản dựa trên nền tảng nào? Dựa trên tư bản, trên lợi nhuận riêng...Nhưng quan hệ gia đình này lại kèm theo sự biến mất gia đình trên thực tế trong giai cấp vô sản, và kèm theo nạn mãi dâm công khai... Lời nói khoa trương của giai cấp tư sản về gia đình và giáo dục, về mối quan hệ chung thiêng liêng giữa cha mẹ và con cái, lại càng trở nên ghê tởm hơn khi, do tác động của công nghiệp hiện đại, tất cả các mối quan hệ ràng buộc trong gia đình của giai cấp vô sản càng bị huỷ diệt, và trẻ em họ càng bị biến thành những món hàng mua bán và những công cụ lao động...Tư sản xem vợ mình chỉ là công cụ sản xuất...Giới tư sản của chúng ta, không bằng lòng là bọn họ đã có sẵn vợ và con gái của nhưng người vô sản để dùng, chưa kể đến các gái điếm thường, đều rất lấy làm thích thú đi quyến rũ vợ lẫn nhau. Hôn nhân tư sản trên thực tế là chế độ vợ chung cho nên, cùng lắm, những người Cộng sản chỉ có thể bị chê trách rằng họ muốn đưa ra một chế độ vợ chung hợp pháp công khai để thay thế một chế độ vợ chung được che giấu một cách giả dối."

Lòng căm ghét và phẫn nộ hiện ra rành rành trong những lời này; nhưng giận, tuy là xúc cảm thật và mãnh liệt, nhưng không nhất thiết là xúc cảm chân thật, cũng hoàn toàn không hẳn là luôn luôn do bất mãn. Con người, nhất là các trí thức, luôn luôn có cám dỗ cho rằng đức tính của người ta tỷ lệ với lòng căm ghét thói xấu của họ, rồi đến lượt lòng căm ghét thói xấu ấy lại được đo bằng nhiệt tình của sự tố cáo ở họ. Nhưng khi Marx viết ra những lời này, ông chắc chắn hẳn biết rằng, may ra, chúng là sự phê phán rất kịch liệt, còn tệ nhất, chúng là sự cố tình bóp méo được tính toán trước nhằm lừa dối và huỷ diệt.

Bản thân ông cũng không làm tròn bổn phận đối với gia đình. Ông tuy sống ra vẻ quý tộc, nhưng đó là cuộc sống lang bạt, thiếu nề nếp, và dơ dáy tồi tàn. Hai con gái ông, Laura và Eleanor, đều tự tử, một phần do ông can thiệp vào đời riêng của họ. Nhưng ngay cả kẻ thù không đội trời chung của ông cũng không tuyên bố rằng y xem vợ ông, Jenny von Westphalen, "chỉ là công cụ sản xuất", hay nói chơi chữ, chỉ là một chiếc khung cửi(1). Một nửa các bài thơ tình thời trẻ ông tặng bà bằng ngôn ngữ say đắm và lãng mạn nhất mới chỉ viết ra trước một vài năm ông viết Tuyên ngôn; và tuy về sau tình cảm họ đã lạnh nhạt, lúc bà mất ông vẫn rất đau buồn và chẳng bao lâu qua đời. Cho dù kiến thức của ông về con người chủ yếu từ sách vở, ông ắt hẳn biết rằng điều ông mô tả trong Tuyên ngôn về mối quan hệ giữa nam và nữ là hoàn toàn xuyên tạc. Vì thế, sự giận dữ của ông-như bao sự giận dữ ngày nay-hoàn toàn không thật, có lẽ đấy là cố gắng để giả vờ có tinh thần độ lượng, hay có lòng thương người, mà ông biết ông không có nhưng cảm thấy mình nên có.

Sự thờ ơ của ông về những cuộc đời cá nhân và về số phận của những con người thật sự - điều mà Mikhail Bakunin có lần gọi là sự thiếu thông cảm của ông với loài người - thể hiện rõ ràng qua việc ông không nhận ra nỗ lực thường cao quý của những người lao động khi họ phải đối mặt với bao hoàn cảnh khó khăn nhất để gìn giữ cuộc sống gia đình đáng kính. Phải chăng thật sự là họ không có các mối quan hệ gia đình ràng buộc, và phải chăng con cái họ chỉ là những món hàng mua bán? Vậy chúng chỉ là những món hàng mua bán cho ai? Do tính thiếu chính xác Marx thường để câu trả lời mơ hồ, như thể mua bán có thể tồn tại mà không phụ thuộc vào những người tham gia vào cuộc mua bán. Chỉ có sự giận dữ của ông là quá rõ ràng.

Marx cũng rõ ràng bám chặc vào ảo tưởng ở chỗ ông không hình dung ra điều gì sẽ xảy đến một khi gia đình tư sản sẽ thật sự bị sụp đổ qua sự áp dụng những tư tưởng của các trí thức cực đoan vốn chịu ảnh hưởng cách suy nghĩ của ông, một khi "sự biến mất gia đình trên thực tế " sẽ thật sự trở thành hiện thực xã hội không thể phủ nhận được. Lúc âý bất kỳ ai có kiến thức sâu sắc hơn ông về lòng người chắc chắn hoàn toàn có thể tiên đoán được cảnh ghen tuông gia tăng, cảnh trẻ em bị bỏ bê và bị hành hạ tràn lan, cùng với cảnh bạo lực tăng vọt giữa nguời với người trong xã hội(tất cả những bi kịch này diễn ra trong bối cảnh thịnh vượng vật chất chưa từng có).

Hãy so sánh sự thô thiển của Marx với sự tinh tế của Turgenev từng được Henry James gián tiếp nhắc đến. Ông quen biết Turgenev và viết một bài tưởng niệm nhà văn một năm sau khi ông qua đời: "Giống như tất cả những con người mẫu mực cao quý, ông là nhiều mảnh nhỏ khác nhau được ghép lại; nhưng điều luôn luôn nổi bật ở ông là sự hoà hợp giữa sự giản dị và kết quả của vô số những quan sát khác nhau...Có lần tôi cảm thấy thôi thúc nhận xét về ông rằng ông có tánh chất quý tộc: Sau này nhờ biết thêm, tôi thấy lời nhận xét ấy dường như quá vô nghĩa. Ông không gò bó theo bất kỳ định nghĩa nào như thế, còn nói ông là dân chủ (mặc dù lý tưởng chính trị của ông là dân chủ) là mô tả ông một cách cũng hời hợt không kém. Ông cảm nhận và thấu hiểu những mặt trái của cuộc đời; ông giàu tưởng tượng, chiêm nghiệm, hoàn toàn không trần trụi. Ông xa lạ với những tiêu chuẩn Anh, Tin lành, luân lý, thông thường, và ông phán xét mọi sự một cách phóng khoáng và tự nhiên khiến tôi luôn luôn qua đó thấy sự tươi tắn mới mẻ. Ý thức của ông về mỹ, tình yêu của ông về chân và thiện, là nền tảng cho bản chất của ông; nhưng ta cảm thấy hấp dẫn khi trò chuyện với ông chủ yếu là vì ta hít thở bầu không khí mà trong đó những ngôn từ đạo đức giả và những khuôn mẫu áp đặt chỉ có vẻ lố bịch."

Tôi nghĩ không có ai viết ra những lời như thế về Marx. Khi ông viết "Công nhân không có tổ quốc. Chúng ta không thể lấy của họ cái mà họ không có", ông viết với tư cách một người, theo như ta biết, không bao giờ thèm bận tâm thăm dò quan điểm thực tiễn của bất kỳ ai ngoại trừ của chính ông. Tưởng chẳng cần nói gì hơn, ông đã tuyên bố quá sớm cái chết của tinh thần dân tộc. Hơn nữa khi ông viết rằng những người tư sản sẽ khóc thương cho nền văn hoá mà cuộc cách mạng vô sản tất yếu sẽ tiêu diệt, nhưng " nền văn hoá ấy..., đối với đại đa số, chỉ là sự đào tạo để hành động như một cái máy", ông đã không thừa nhận biết bao nỗ lực gây xúc động sâu xa của công nhân ở Anh để có được chính nền văn hoá mà là phương tiện giải phóng họ và làm họ trở nên cao quý ấy. Chỉ cần vận dụng một tí tưởng tượng là ta hiểu được sự phấn đấu phi thường của những con người ban ngày làm việc quần quật trong các nhà máy thời cách mạng công nghiệp tối về vùi đầu đọc Ruskin và Carlyle, Hume và Adam Smith như rất nhiều công nhân thời đó đã đọc (ngày nay người ta vẫn còn thấy trong các tiệm bán sách cũ những cuốn sách họ đã mượn đọc từ các thư viện và trường đại học thời đó); nhưng đến một tí tưởng tượng ấy Marx cũng không bao giờ sẳn sàng vận dụng, chỉ vì ông thấy chẳng đáng bõ công để làm điều này. Ta có thể hỏi phải chăng ông đã làm gương cho đám cầm thú có học trong các trường đại học, những kẻ đã tiêu diệt những gì có lợi cho bản thân nhiều người khác.

Khác rất xa với tất cả điều này, sự cảm thông Turgenev bày tỏ với những cảnh đời bị chà đạp là sự cảm thông với những con người đang sống và đang thở. Vì ông hiểu điều mà Henry James gọi là "những mặt trái của cuộc đời", ông hiểu đối với lịch sử không có hồi kết cục gay gấn, không có cuộc thế chiến huỷ diệt tất yếu cuối cùng để rồi sau đó tất cả các mâu thuẫn đều được giải quyết, tất cả các xung đột đều biến mất,là lúc con người ai ai cũng trở nên tốt cả vì chế độ xã hội đã hoàn thiện, là lúc sự kiểm soát chính trị và kinh tế sẽ biến thành sự quản trị đơn thuần có lợi như nhau cho tất mọi người. Thần học thế mạt của Marx, thiếu tất cả sự suy xét bình thường, thiếu tất cả những kiến thức về bản chất con người, dựa trên những trừu tượng mà đối với ông còn thực hơn cả những con người thật sự quanh ông. Tất nhiên, Turgenev biết giá trị của những điều tổng quát chung và có thể chỉ trích những thể chế chẳng hạn như chế độ nông nô, nhưng ông không hề có bất kỳ ảo vọng ngu ngơ nào về thiên đường không tưởng: bởi lẽ ông biết Con Người vốn sa ngã, có lẽ, có khả năng cải thiện, nhưng không có khả năng hoàn thiện. Cho nên sẽ không có đống xương Vô định nào gắn liền với tên của Turgenev.

Marx tuyên bố biết Con Người, nhưng đối với những người không phải là những kẻ thù của ông - ông không biết họ. Tuy là nhà biện chứng thuộc về triết học Hegel, ông không quan tâm đến những mặt trái của cuộc đời. Lòng nhân ái hay sự tàn nhẫn thảy đều không lay động lòng ông: con người chỉ là những quả trứng mà ngày nào đó sẽ được dùng để làm món trứng rán vinh quang(2). Và ông sẽ là phương tiện thực hiện giấc mơ này.

Khi chúng ta để ý đến những nhà cải cách xã hội của chúng ta - từ ngôn ngữ, ưu tư, phong cách, đến hạng người họ suy nghĩ về - ta thấy họ giống ai nhiều hơn, Marx hay Turgenev? Turgenev- viết một bài văn tuyệt vời tựa đề "Hamlet và Don Quixote", tựa đề tự nó đã nói lên rõ ràng -chắc không ngạc nhiên khi khám phá ra rằng phong cách Mác-xít đã thắng thế.

Do số phận thật trớ trêu, những kẻ không tưởng Mác-xít lạnh lùng ở Nga đã xử dụng truyện "Mumu" cho mục đích vụ lợi, nghĩa là họ in ra hàng chục triệu bản nhằm biện minh sự tàn bạo hiếu sát của họ khi tiêu diệt mọi dấu vết của xã hội cũ. Còn số phận nào khủng khiếp hơn và phi lý hơn đã giáng xuống câu truyện của Turgenev bằng khi truyện đã được xử dụng để biện minh cho việc giết người hàng loạt? Còn ví dụ nào hùng hồn hơn về khả năng của sự trừu tượng trí thức đã làm cho tim óc con người không còn ý thức về xấu hổ và không còn tình cảm nhân đạo thật sự?

Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ lại một chi tiết trên đường đời của Marx và trên đường đời của Turgenev đã khiến hai người khác nhau. Lúc Marx được chôn cất, hầu như chẳng ai đến dự đám tang của ông (có lẽ cũng đáng, vì ông không dự đám tang người cha đã rất thương ông và hy sinh nhiều cho ông). Khi di hài của Turgenev được đưa từ Pháp về St. Petersburg, hàng chục ngàn người, trong đó có cả những người hèn mọn khốn cùng nhất, đã có lý do rất chính đáng để đến đưa tiễn ông lần cuối cùng.



Chú thích của người dịch

(1) Tên vợ của Marx, Jenny, trùng với một từ của "spinning jenny" nghĩa là khung củi.

(2) Câu nói được cho là của Lê nin,"Ta không thể làm món trứng rán nếu không đập vỡ trứng.", ám chỉ rằng cuộc cách mạng muốn thành công tất yếu phải hy sinh hay tiêu diệt càng nhiều người càng tốt.


Nguồn: Tạp chí City Journal số mùa Hè 2001

www.city-journal.org/html/11_3_urbanities-how_and_how_no.html

Theodore Dalrymple là bác sỹ về thần kinh
và là cây bút nổi tiếng người Anh.

31.10.11

NHỮNG CUỘC XẾP HÀNG ĐI VÀO SỐ PHẬN

Trần Quốc Việt

Đôi lúc qua cảnh xếp hàng của dòng người ta nhìn thấy lờ mờ số phận của một dân tộc. Đấy là ý nghĩ của tôi trong suốt tuần qua khi nhìn thấy hình ảnh những dòng người xếp hàng ở Tunisia, Libya và Việt Nam.

Vào ngày Chủ Nhật 23/10 nhân dân Tunisia thức dậy từ sáng sớm để bắt đầu xếp hàng rồng rắn rất dài hàng giờ liền dưới ánh nắng nóng bức của mặt trời Bắc Phi. Nhiều cha mẹ đưa con đến để chứng kiến thời khắc lịch sử. Trong số 10,4 triệu người đủ điều kiện đi bầu có đến 7 triệu người xếp hàng bỏ phiếu trong cuộc bầu cử thật sự tự do lần đầu tiên ở Tunisia và cũng là cuộc bầu cử đầu tiên của Mùa xuân Ả Rập. Họ rất kiêu hãnh và tự hào khi họ góp phần viết trang sử mới cho bản thân, gia đình và cho quê hương sau hàng bao năm sống trong gông cùm của chế độ độc tài.

Và không gì hơn là chúng ta hãy lắng nghe những lời của họ như âm thanh rì rào reo vui của bao cọng cỏ trước làn gió tự do đầu tiển thổi đến.

Ismail Trabelsi, 42 tuổi, kỹ sư môi trường, đến phòng bỏ phiếu lúc 7 giờ sáng, và anh xếp hàng chờ hơn một giờ đồng hồ mới đến lượt mình bỏ phiếu. Anh nói: "Dù kết quả bầu cử thế nào chăng nữa, kết quả ấy vẫn là quyết định của chúng tôi,chứ không phải bị áp đặt lên chúng tôi. Chúng tôi đã chờ 55 năm cho giây phút này."

Lần đầu tiên trong lịch sử nước này đây là ngày Chủ Nhật có nhiều nụ cười nhất, có lẽ để bù đắp lại những ngày Chủ Nhật buồn ngày xưa. Cuộc cách mạng nhân phẩm đã thành công. Anh Amin Ganhouba, 30 tuổi, nhân viên kỹ thuật, nói: "Hôm nay là ngày độc lập. Hôm này qua hành động bỏ phiếu đơn giản chúng tôi đạt được tự do và nhân phẩm."

Đối với những thế hệ lớn tuổi hơn cuộc bầu cử này là niềm vui không gì sánh bằng, một giấc mơ của mọi giấc mơ. Ông Tayeb Awisi, 83 tuổi, khoe ngón tay dính mực màu xanh - dấu hiệu cử tri đã bỏ phiếu - và cho biết ông đã đi bầu tất cả các cuộc bầu cử gian lận từ năm 1956 khi Tunisia thoát khỏi ách đô hộ của người Pháp. Nhưng ông tâm sự đây mới là lần bỏ phiếu đích thực đầu tiên của mình.

"Chúng tôi đã quỳ suốt bao nhiêu năm nay, và bây giờ chúng tôi đang đứng lên," ông nói. "Nếu tôi chết ngay lúc này, tôi cũng nhắm mắt ra đi thanh thản. Cho dù tôi không hưởng lợi gì từ cuộc bầu cử này, nhưng con cháu tôi nhất định sẽ hưởng."

Niềm vui về sự tái sinh của một nước Tunisia hiện sáng ngời lên trên các khuôn mặt của các cử tri thuộc nhiều thế hệ. Thời gian chờ dằng dặc hai tiếng rưỡi dưới ánh mặt trời gay gắt chẳng là gì đối với anh Walid Sellami, 27 tuổi, nhân viên tư vấn tài chính cùng đi bầu với cha mẹ mình. Anh nói:" Tôi chưa bao giờ hạnh phúc vô cùng khi xếp hàng chờ đợi như thế này. Đây là thời điểm trọng đại đối với chúng tôi. Cuộc bầu cử tự do đầu tiên trong Thế giới Ả Rập... Vì đây là cuộc bầu cử đầu tiên nên ai thắng không quan trọng. Tôi hạnh phúc nếu nhân dân bỏ phiếu cho các đảng khác. Mục tiêu của chúng tôi là hoà nhập vào thế giới dân chủ."

Touhami Sakouhi, cựu tù chính trị phát biểu: " Cho dù tôi phải xếp hàng chờ 24 giờ đồng hồ, tôi cũng không từ bỏ cơ hội để tận hưởng không khí tự do này."

Không khí tự do ấy là niềm tin vững chắc rằng sẽ không còn những nhà độc tài tương lai "ngồi xổm tục tỉu như con cóc lên cuộc đời của nhân dân Libya"(1)như lời xác quyết của ông Soussi Loffi, người cử tri mang đôi giày rách được vá lại, " Bây giờ có một nội lực hướng dẫn người dân Tunisia. Nghĩa là chúng tôi không còn phải bị sai bảo gì nữa. Chúng tôi sẽ xuống đường và sẽ không còn tên độc tài nào nữa." (2)

Đây là cuộc xếp hàng đi vào tương lai của nhân dân Tunisia.

Một cuộc bỏ phiếu khác đã diễn ra lặng lẽ trước đó ở Libya. Kết quả của cuộc bỏ phiếu ấy đưa đến cái chết thê thảm của nhà độc tài Qaddafi.

Cuộc bỏ phiếu bằng chân của người dân thành phố Sirte!

Qaddafi cùng con trai và các thuộc hạ trung thành cố thủ ở thành phố này, quê của ông. Bên ngoài lực lượng cách mạng và NATO quyết định bao vây chứ không tấn công vào vì sợ gây thương vong lớn cho người dân trong thành phố. Quyết định này đã cho phép người dân có thời gian suy nghĩ và chọn lựa giữa ra đi hay ở lại. Cuối cùng đa số người dân bỏ phiếu bằng chân hàng loạt. Qaddafi bị dân chúng bỏ rơi đành phải tìm đường thoát thân. Những gì diễn ra sau đó chính khởi sự từ cuộc bỏ phiếu bằng chân lịch sử này, và qua đó ta thấy cốt lõi của các cuộc cách mạng trong Mùa Xuân Ả Rập chính là nhân phẩm và sự tự do chọn lựa hay bác bỏ những người lãnh đạo.(3)

Rồi đến cuộc xếp hàng hy hữu trong lịch sử thế giới - cuộc xếp hàng xem xác chết. Những người dân Libya xếp hàng dài cả hơn cây số để vào xem xác chết của một người đã cướp đi bao niềm vui sống của họ trong suốt 42 năm trị vì. Họ xếp hàng hàng giờ để được tận mắt thấy cái xác tô hô ghê tởm của Qaddafi không phải vì tò mò mà vì muốn tin chắc rằng ông ta đã thực sự chết đúng như tin nhắn ban đầu "con chó ấy đã chết" truyền đi hàng loạt qua điện thoại di động khi tin về chết của ông được loan ra.

Họ xếp hàng để từ giã nỗi sợ, tức xiềng xích tinh thần cuối cùng đè nặng trong lòng, để tiến vào tương lai như nhân dân Tunisia.

Ngày Qaddafi bị giết chết là ngày các nhà lịch sử và các nhà báo điểm danh lại những nhà độc tài đã qua. Người Việt Nam duy nhất được nhắc đến trong câu lạc bộ 13 nhà độc tài đồ tể nhất là ông Hồ Chí Minh (xếp thứ 11). Ông đã gây ra cái chết của 1,7 triệu người trong 24 năm cầm quyền (1945-1969). Và một bài báo khác cũng nêu tên ông như là một trong những nhà độc tài tàn ác nhất của nhân loại cùng với Lê nin, Stalin, Pol pot, Kim Nhật Thành ... (4)

Nhưng qua những hình ảnh trên các báo tại Việt Nam, chúng ta thấy dòng người xếp hàng rất dài để đi vào trong lăng Hồ Chí Minh.(5) & (6)

Những bức hình nói thay cho biết bao nhiêu lời. Người dân vẫn tôn sùng lãnh tụ đã khuất qua việc họ xếp hàng dài để vào Lăng. Hiển nhiên một điều là người ta có thể bị bắt buộc đi bầu những cuộc bầu cử lừa bịp và giả dối, nhưng khó ai bắt buộc hàng ngàn người xếp hàng vào lăng nếu họ không muốn. Ít nhiều ở đây có sự tự nguyện của khách viếng lăng, dù sự tự nguyện ấy là kết quả của hàng chục năm trời tẩy não và tuyên truyền không ngừng nghỉ và hết công suất.

Nhưng dù sao chúng ta đang sống trong thời đại thông tin rộng mở mà người dân vẫn không thể hay không muốn tìm hiểu sự thật về "thần tượng" của họ. Nhà kinh tế John Maynard Keynes từng nói khi thông tin thay đổi thì đầu óc ta thay đổi theo.

Hay phải chăng như lời nhà thơ Nga Puskin:"Họ chỉ yêu người chết."

Ryszard Kapuscinski, nhà báo Ba Lan nổi tiếng toàn cầu, viết như sau về "xã hội lịch sử":

"Trong các xã hội lịch sử, tất cả mọi sự đều được quyết định trong quá khứ. Tất cả nghị lực, tình cảm, say mê của họ đều hướng về quá khứ, đều dành cho việc thảo luận lịch sử, cho ý nghĩa lịch sử. Họ sống trong vương quốc của huyền thoại và nòi giống lập quốc. Họ không thể nói về tương lai vì ở họ tương lai không gợi lên niềm say mê như lịch sử. Họ là dân tộc hoàn toàn lịch sử, sinh ra và sống trong lịch sử của những đấu tranh, phân chia và xung đột lớn. Họ giống như người cựu binh già. Tất cả những điều ông ta muốn nói toàn là về những trải nghiệm thử thách lớn lao chất chứa bao tình cảm sâu đậm khiến ông không bao giờ có thể quên được.

Tất cả những xã hội lịch sử đều sống với gánh nặng làm lu mờ tâm hồn, trí tưởng tượng của họ. Họ phải sống đắm mình trong lịch sử; nhờ lịch sử họ thể hiện mình. Nếu họ mất lịch sử, họ mất bản sắc của họ. Lúc đó họ sẽ không chỉ vô danh. Họ sẽ không còn tồn tại. Quên lịch sử là quên chính mình- một sự bất khả về sinh học và tâm lý. Lịch sử là vấn đề sinh tồn."(7)

Khi nhân dân Tunisia và Libya xếp hàng tiến vào tương lai mà có thể đầy thăng trầm và khó khăn nhưng dù sao vẫn là tương lai. Còn xã hội Việt Nam sao cứ đi lùi mãi về quá khứ.

Ryszard Kapuscinski đã báo trước viễn cảnh của một xã hội lịch sử như sau:

"Không có gì sẽ thay đổi trừ phi các xã hội lịch sử học để sáng tạo, học để tạo ra cuộc cách mạng tinh thần, cách mạng thái độ, cách mạng tổ chức. Nếu họ không huỷ diệt lịch sử, thì lịch sử nhất định huỷ diệt họ."

Vì bản chất của chế độ không thể thay đổi nên câu trả lời cho tương lai nước Việt nằm ở từng cá nhân và từng tấm lòng trong chúng ta.

Nhân dân Tunisia và Libya đang xếp hàng để bước chập chững, dò dẫm vào tương lai dân chủ và tự do dù con đường trước mắt họ là con đường rất dài, quanh co, rồng rắn như cảnh xếp hàng, nhưng con đường ấy là con đường một chiều mở ra một tương lai và vận hội tươi sáng mới. Còn Việt Nam đi lùi dần vào hoàng hôn của lịch sử, một lịch sử quá khứ và tương lai được điểm nhịp bằng những thời kỳ Bắc Thuộc cũ và mới cùng với sự tàn lụi tất yếu của của bao giá trị đạo đức và văn hoá.

Đôi lúc những cuộc xếp hàng vận vào số phận của một dân tộc.




Tài liệu tham khảo

(1)Theo Christopher Hitchen, tạp chí Slate, 21/10/2011

(2)Theo tường thuật của các báo New York Times, Wall Street Journal, Washington Post, Los Angeles Times, The Independent, Guardian, & Telegraph 23/10/2011

(3)Theo xã luận của báo Chirstian Science Monitor 20/10/2011

(4)Theo báo The Daily Beast/Newsweek, hai bài:
(a)13 Dealiest Dictators
www.thedailybeast.com/.../the-20th-century-s-deadliest-dictators-pho...

(b)Andrew Roberts, How Dictator Die-Newsweek
www.thedailybeast.com/.../muammar-gaddafi-s-death-and-how-hitler...

(5)"Hàng nghìn người vẫn đổ về lăng Bác",theo Zing.vn, 4/9/2011
www.zing.vn/news/xa-hoi/.../a125872.html

(6)Theo Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
www.bqllang.gov.vn

(7)Ryszard Kapuscinski, Một thế giới hai nền văn minh, Talawas 26/10/2010

20.10.11

Guy Sorman -Tự do để Sáng tạo

Trần Quốc Việt dịch

Được rất nhiều người trong cộng đồng nghệ sĩ và trí thức ở Bắc Kinh thừa nhận và khâm phục, Lưu Hà có lẽ là nghệ sĩ nhiếp ảnh quan trọng nhất ở Trung Quốc ngày nay. Tuy nhiên, chị cũng là một nghệ sĩ bị cấm đoán. Sáu bức ảnh của chị, chụp lại ở dưới, không bao giờ được nhận giấy phép rời Trung Quốc. Bản thân Lưu Hà bị mất tích suốt từ tháng Giêng đến nay, chị bị công an quản thúc tại gia ở đâu đó tại Bắc Kinh mà không có đến một bản cáo trạng chứ đừng nói đến một vụ xử ở toà. Chẳng ai biết hiện nay chị ở đâu.

Tại sao lại kiểm duyệt đến như thế đối với những bức ảnh khá trừu tượng? Tại sao những bức ảnh này khiến chính quyền Trung Quốc rất giận dữ ? Không phải vì Lưu Hà là nhà hoạt động chính trị; giống như hầu hết các nghệ sĩ, chị ao ước tự do, nhưng chị không phải là nhà bất đồng chính kiến tích cực. Không, sự trấn áp này chỉ có một lời giải thích: Lưu Hà là vợ của Lưu Hiểu Ba. Tội duy nhất của ông là viết hiến chương - tuy một việc làm được hiến pháp Trung Quốc cho phép. Hiến chương, lưu hành trên mạng, được mấy ngàn học giả và nghệ sĩ Trung Quốc ký tên.

Khi Lưu Hà được hỏi tại sao chị xuống tóc, chị trả lời rằng chị sẽ để tóc trở lại khi Trung Quốc tự do. Chị cũng băn khoăn tại sao Phương tây không ủng hộ các nhà hoạt động dân chủ Trung Quốc như Phương tây đã từng ủng hộ các nhà bất đồng chính kiến Nga. " Chẳng lẽ chúng tôi không phải là con người sao?" chị hỏi."Hay các vị chờ đợi cho đến khi họ tiêu diệt sạch hết tất cả các nhà hoạt động dân chủ ở Trung Quốc - rồi lúc đấy mới khóc than cho chúng tôi?"

Hôm nay, cuộc triễn lãm ảnh của Lưu Hà khai mạc tại Bảo tàng Boulogne, gần Paris. Đây là lần đầu tiên các bức ảnh được triễn lãm cho công chúng xem, từ trước đến nay, chúng chỉ được xem tại nhà riêng hoặc ở căn hộ của Lưu Hà hay lưu hành trong giới thưởng thức tài tử tại Bắc Kinh. Cuộc triến lãm, dưới tên Sức mạnh lặng lẽ của Lưu Hà, nhấn mạnh sự xử dụng màu trắng và đen của người nghệ sĩ - để tỏ lòng trân trọng nghệ thuật thư pháp lâu đời, nguồn gốc của tất cả các nghệ thuật ở Trung Quốc. Trong tác phẩm của Lưu Hà, chúng ta thấy những con búp bê kỳ lạ mà chị gọi là những "em bé xấu xí" của mình đi lang thang vất vưởng như những bóng ma ở Bắc Kinh. Ý tưởng, buồn thay cuối cùng không quan trọng, là những người kiển duyệt sẽ không hoảng sợ nhiều trước những bức ảnh búp bê như trước những bức ảnh người thật. Tuy vậy, trong bức ảnh cuối cùng chúng ta được thấy Lưu Hiểu Ba.

Lưu Hà không chỉ là nghệ sĩ lớn bị trừng phạt vì không phục vụ Đảng. Cao Hành Kiện, người đoạt giải Nobel văn chương, đã phải bôn ba lưu vong nhiều năm trời và hiện sống ở Pháp. Ngãi Vị Vị, có những tác phẩm điêu khắc được triễn lãm ở New York, bị bắt giam hai tháng trong năm nay mà không một lời giải thích; ngày nay, ở Bắc Kinh, ông không được phép nói chuyện với người nước ngoài. Ta có thể tưởng đâu Đảng Cộng sản mừng vui trước sự phục hưng văn hoá Trung Quốc đang được sáng tạo bởi các nghệ sĩ được cả thế giới công nhận. Vì Đảng không mừng vui, nên kết luận rõ ràng là Đảng sợ sự sáng tạo của chính những người dân mình -một đặc điểm chung của tất cả các chế độ áp bức nhất định phải tiêu vong.


Nguồn: Tạp chí City Journal 19/10/2011

http://www.city-journal.org/2011/eon1019gs.html

18.10.11

Yêu Nước Sao khổ Thế!

Trần Quốc Việt

Sáng nay tôi xem video quay cảnh chị Bùi thị Minh Hằng khi đi dạo trên bờ Hồ. Hình ảnh cuối cùng vương vấn trong lòng là chiếc nón rách chị ôm vào lòng. Có hình ảnh yêu nước nào bi thương hơn hình ảnh người phụ nữ chân không đứng lẻ loi trên vỉa hè, ôm chặt chiếc nón rách vào lòng ấy.

Yêu nước sao khổ đến như thế?

Yêu nước sao cô đơn lẻ bạn đến như thế?

Nước của ai hay nước riêng của chị để chị phải chịu bao đau đớn khổ sở đến như thế?

Hỏi để nuốt nước mắt vào lòng. Vì câu trả lời rõ ràng và đau đớn như vô vàn kim đâm vào da thịt.

Hỏi để thấy mình quá đớn hèn không những trước cha ông mà còn trước mắt chị.

Chị bị bắt vào tù một ngày, chúng ta thấy mình sống thừa, sống mòn, sống cam phận, sống thu mình thêm một ngày.Chúng ta thành những con ốc thu mình mãi trong vỏ tự khi nào.

Tôi hiểu tại sao Đảng cam tâm làm nô lệ cho Tàu.

Tôi hiểu tại sao lãnh đạo thi nhau lấy hẹn để sớm vào chầu viên đại sứ mới của Trung Quốc.

Nhưng tôi không hiểu tại sao đại đa số người dân có thái độ tiêu cực đến như thế, họ sống như những xác chết biết đi, sống mà không quan tâm gì xa hơn cái cổng nhà mình. Có ai đó đã nói chúng ta có thể không thay đổi số phận, nhưng chúng ta có thể thay đổi thái độ.

Chắc trong tù chị Hằng căm hận chính quyền nhưng chắc cũng rất tủi phận khi thấy mình lẻ loi trên bờ Hồ với chỉ chiếc nón là bạn.

May mà còn chiếc nón để chị cảm thấy ấm lòng vì chiếc nón là cả quê hương qua những chữ viết tắt HS- TS -VN.

Cảm ơn chị và cảm ơn chiếc nón.

1.10.11

Janine di Govanni-Bản vẽ cho cuộc cách mạng

Trần Quốc Việt dịch

Vào tháng Mười năm 2000, với lòng khao khát được sống một cuộc sống dân chủ một nhóm sinh viên trường đại học tổng hợp Belgrade đã góp phần lật đổ ách cai trị của nhà độc tài khát máu nhất ở Châu Âu, Slobodan Milosevic.

Ảnh hưởng lên họ là Gandhi, Martin Luther King, và công trình nghiên cứu của giáo sư đại học Mỹ và bậc thầy về phản kháng bất bạo động, Gene Sharp. Họ áp dụng những chiến thuật đơn giản nhưng hiệu quả: dùng điện thoại di động, khẩu hiệu và sự hài hước đường phố kiểu Monty Phython. Nhưng bí quyết của họ chính là phương pháp: đoàn kết, kế hoạch và tuân thủ bất bạo động. Dùng chiến thuật bộ ba này, họ đã đoàn kết được một nước Serbia vốn chia rẽ về chính trị để cùng nhau hợp tác cho mục tiêu chung.

Những nhà hoạt động dân chủ huyền thoại này -những người gọi mình là Otpor, tiếng Serbia nghĩa là "phản kháng"- đã qua thời sinh viên và cũng qua thời ngồi trong quán cà phê "châm chọc chính quyền". Hôm nay nhiều người trong số họ thành nghị sĩ; nhiều người khác là bộ trưởng. Nhưng một số người trong nhóm sinh viên ngày xưa ấy đã tiếp tục lập ra Trung tâm Chiến lược Bất bạo động Ứng dụng, còn thường gọi là Canvas, một tổ chức hướng dẫn các nhà hoạt động dân chủ trên khắp thế giới cách thức lật đổ thành công chế độ độc tài.

Cuộc cách mạng của lớp trẻ Serbia đã trở thành tiêu chuẩn mẫu mực cho cuộc đấu tranh ôn hoà bất bạo động. Canvas chỉ làm việc với những nhóm không có lịch sử bạo động: chẳng hạn, họ từ chối làm việc với Hamas hay Hizbollah. Nhưng họ coi Georgia, Ukraine và Maldives (nơi họ giúp các nhà bất đồng chính kiến chấm dứt 30 năm cai trị của Maumoon Abdul Gayoom) là những câu chuyện thành công, và làm việc với các nhà hoạt động dân chủ từ gần 50 quốc gia, bao gồm Iran, Zimbabwe, Miến Điện, Venezuela, Belarus và, gần đây, Tunisia và Ai Cập.

Canvas được điều hành bởi đôi bạn thân nhất từ những ngày Otpor, Srdja Popovic, 38 tuổi, và Slobodan Djinovic, 36 tuổi. Khó có ai nghĩ rằng họ là cặp bài trùng. Popovic là người cao gầy và rụt rè, được đào tạo thành nhà sinh vật học nước ngọt:"Cá mập bơi khi nó ngủ, nếu nó ngừng bơi, nó chết," anh nói."Cá mập chỉ bơi tới. Ta phải làm sao cho các cuộc cách mạng không ngừng tiến lên."

Djinovic từng là cựu cầu thủ bóng rỗ, điển trai, có bằng thạc sĩ về quan hệ quốc tế ở phân khoa Luật pháp và Ngoại giao Fletcher tại Mỹ, có vẻ tự chủ và tự tin. Anh thành lập công ty cung cấp dịch vụ internet không dây đầu tiên ở Serbia và có thể trở thành trùm Silicon Valley ở Serbia nếu anh muốn, nhưng thay vì thế anh cho phân nửa tiền kiếm được để duy trì Canvas (Nửa kia được các tổ chức phi chính phủ và Liên hiệp Quốc tài trợ.) "Tôi có thể là đại gia cỡ như thế diện côm lê, lui tới các câu lạc bộ như mong muốn của mẹ tôi và vợ, " Djinovic thổ lộ," nhưng tôi không thể như thế. Sau khi nhìn thấy và làm được điều chúng tôi đã làm."

Giống như đa phần những người thuộc thế hệ Otpor, đôi bạn lớn lên trong thời Tito thanh bình ngày xưa, thời "chủ nghĩa xã hội nhẹ" khi họ mặc quần jean xanh, uống Coca-Cola và có những chuyến du lịch sang Hy Lạp. Khi các cuộc chiến tranh khốc liệt ở Nam Tư bắt đầu vào năm 1991 họ ở vào lứa tuổi 18 và 16, độ tuổi đủ chín chắn để biết họ phải cần loại bỏ Milosevich. Ngày nay, họ muốn đem kiến thức của mình truyền bá ra khắp thế giới.

Hoài bão này được thực hiện với đội ngũ gồm "bốn người rưỡi", hàng chục giảng viên trên khắp thế giới và một văn phòng ở đường Gandhiova (theo tên Ghandi) ở đô thị Belgrade Mới. Người ngồi trong góc phòng là nhân viên Canvas vừa mới trở về sau chuyến đi đến Tunisia thu thập dữ liệu để nhằm giúp đỡ những nhà lãnh đạo mới trong thời kỳ quá độ sau Ben Ali. Djinovic đi lại trong văn phòng, vừa ăn sandwich vừa nói về việc nhắm vào các trụ cột yếu trong xã hội để giật sập các chính quyền độc tài. Có người nào đấy đang nói về Mohamed Adel, nhà hoạt động dân chủ Ai Cập thuộc tổ chức Ngày 6 tháng Tư, người đã đến Belgrade để theo học với nhóm Canvas vào năm 2009. Trong phòng có bảng trắng liệt kê những nơi họ đang nhắm đến kế tiếp, và từ đâu đó phát ra trầm lắng tiếng nhạc của băng nhạc Talking Heads.

Tưởng chừng như ta đang ở trong một quán cà phê ở Seattle chứ không ở trong văn phòng nhộn nhịp của những nhà cách mạng. Tôi hỏi họ làm thế nào họ đã báo tin từ nơi tí tẹo này đến Quảng trường Tahrir? Tại sao những người ở tận Yemen và Algeria đang nói về họ?

"Khi mọi người nghe tin những người Serbia đến," Popovic cười,"họ muốn gặp chúng tôi, họ muốn biết làm thế nào chúng tôi thành công. Chúng tôi có thể kể họ nghe những gì đã thành công đối với chúng tôi, những gì đã không thành công ở Georgia, những gì đã thành công ở Ukraine. Chúng tôi cảm thấy có trách nhiệm chia sẽ kiến thức của mình."

Anh nói đùa rằng anh thấy mình như nhân vật Frodo trong tác phẩm Chúa tể của những chiếc nhẫn: "Tôi không đòi là mình phải có chiếc Nhẫn nhưng khi tôi có nó chúng tôi phải giao nó," anh nói đùa với vẻ mặt trang nghiêm. Trong căn hộ của mình ở Belgrade, Popovic có một nơi "thờ phụng" tác giả J. R. R. Tolkien và một chiếc Nhẫn vàng tương tự móc vào sợi dây chuyền - hình tượng của anh về một thế giới dân chủ. Chiếc nhẫn nằm trong ly uống rượu bám đầy bụi dưới tấm bản đồ Middle- earth. " Tolkien có viết một câu rất hay," anh nhắp rakija, loại rượu Serb mạnh được ưa chuộng, và nói." Ngay cả những người nhỏ bé nhất cũng có thể thay đổi thế giới."

Slobodan Homen, một cựu thành viên Otpor khác mà cuộc đời đã mãi mãi thay đổi sau khi dấn thân vào phong trào, đã rời nhóm và gia nhập chính quyền đương thời dưới sự lãnh đạo của tổng thống Boris Tadic với cương vị thứ trưởng bộ tư pháp.

"À, những ngày hạnh phúc tươi sáng của Otpor," Homen cười và uống một hơi Coke Zero. Homen không giống như bất kỳ bộ trưởng nào tôi đã có dịp gặp. Anh đeo bông tai kim cương, áo sơ mi nhàu nát, không cà vạt và hút thuốc Marlboro Lights trong toà nhà công cộng mà ghi rõ ràng "Không hút thuốc" (theo luật, tiền phạt nặng). Đây chính gần như là thái độ "thách thức quyền lực" đã lật đổ Milosevich.

Vào thời ấy, chính người mẹ khá giả của Homen đã cho Otpor mượn căn hộ của bà ở trung tâm Belgrade khi phong trào thiếu sự tổ chức ban đầu phát triễn từ một nhóm nhỏ những người bạn lên đến gần 70.000 người. Luôn bị công an theo dõi và đánh đập, bọn trẻ Otpor làm việc 12 giờ mỗi ngày, và sống chủ yếu nhờ cà phê và thuốc lá.

"Mục tiêu chính của chúng tôi," Homen hồi tưởng," là phải chỉ cho dân chúng biết rằng họ có thể thay đổi chế độ. Ban đầu chúng tôi làm cho Milosevich lo sợ. Từ đấy chúng tôi tiến đến lật đổ chế độ." Họ dùng đồng thời một loạt những công cụ tiếp thị tài tình- từ lô gô nắm đấm nổi danh trước đây của Otpor giờ được dùng cho Canvas, những khẩu hiệu độc đáo của họ, những cách quảng cáo mới mẻ tân thời trên ti vi -và đến các chiến thuật đường phố, chẳng hạn vào ngày nhật thực toàn phần họ đặt một kính viễn vọng rất lớn và cho người ta thấy khuôn mặt của Milosevich cùng với khẩu hiệu " Đời y tàn rồi!"

Homen thú nhận rằng họ không bao giờ thực sự tin họ có thể thành công - nhưng họ đã thành công. "Nhờ thành công nên hôm nay tôi tin rằng trách nhiệm của chúng tôi là phải đi khắp nơi trên thế giới để khích lệ mọi người qua tấm gương của mình," Homen nói. " Nhưng tuỳ thuộc vào chế độ của mỗi nhân dân. Mỗi khu vực đều khác nhau."

Sau khi tôi rời văn phòng của Homen, tôi đi gặp người thiết kế lô gô nắm đấm. Cũng ngày hôm ấy tôi nhìn thấy trên báo bức hình chụp một người phụ nữ Ai Cập mang nắm đấm Otpo đi quanh Quảng trường Tahrir, và tôi hỏi Duda Petrovich, bây giờ 37 tuổi và cha của hai con, anh cảm tưởng ra sao khi đã tạo ra một hình ảnh mạnh mẽ như thế.

"Tôi nào có ngờ nó sẽ trở thành quan trọng đến như vậy," anh vừa nói vừa dụi tàn thuốc và đưa tay với lấy điếu khác. "Tôi vẽ nó không phải vì lý tưởng, mà vì tôi yêu cô gái trong nhóm Otpor người đã nhờ tôi vẽ." Không ai dấn thân vào cách mạng vì tiền hay danh vọng. Petrovich đã không đăng ký bản quyền thiết kế nắm đấm của anh, hiện nay hình ảnh ấy đang rao bán trên các trang mạng ở Mỹ, được in trên áo, trên ly tách, áp phích".

"Tôi làm biếng kiện cáo," anh tâm sự. "Hơn nữa tôi vẽ nó cho các bạn thân nhất của mình. Và bây giờ hình ảnh ấy được dùng để tranh đấu cho tự do. Ai đời lại đi tính tiền chuyện ấy."

Giống như những người tôi có dịp trò chuyện, Petrovich cho biết Otpor đã thay đổi đời mình." Trước đây ở Serbia mọi thứ đều thê lương u ám. Nào chiến tranh, lạm phát, nào bị trừng phạt," anh nói." Rồi bất ngờ bỗng dưng xuất hiện sinh lực này. Thật là một câu chuyện đẹp. Một câu chuyện của đời mình."

Tôi cũng nhớ những ngày chiến thắng ấy. Tôi đến phi trường Belgrade vào lúc cao điểm của các cuộc biểu tình và mở điện thoại di động. Hiện lên là tin nhắn về Milosevich -Gotov je -đời y tàn rồi. Tôi bật cười vì tôi biết tin nhắn từ bọn nhóc Otpor. Nửa giờ sau tôi nhận hơn 10 tin nhắn nữa, vẫn cùng nội dung. Gotov je.


Nhóm trẻ cũng nhận thức rằng họ có thời cơ -thường đánh dấu thời điểm xuất hiện của bất kỳ cuộc cách mạng nào. Thời cơ ấy có thể là giá dầu tăng vọt, thiên tai hay vụ ám sát khiến quần chúng do phẫn nộ mà sát cánh với nhau. Trong trường hợp của họ, Milosevich kêu gọi tổ chức bầu cử. Hàng loạt các cuộc đình công lớn diễn ra sau đó.

Sau khi họ buộc Milosevich rời bỏ quyền lực, các nhà lãnh đạo Otpor nhận được những lời kêu gọi mong được giúp đỡ từ các nhà hoạt động dân chủ ở nhiều nước khác. Nhưng cuối cùng trong vai trò đảng chính trị Otpor tàn lụi dần, nên Djinovic và Popovic quyết định thành lập Canvas, xem nó như là một tổ chức giáo dục

Công việc giảng dạy của họ như sau: các nhà hoạt động dân chủ sẽ nghe tiếng Canvas (" Đây là một thế giới nhỏ, thế giới của đấu tranh bất bạo động," một nhân viên nhận xét) và đến Belgrade. Vào năm 2009, Mohamed Adel đang hoạt động với phong trào ngày 6 tháng 4 ở Cairo, nhưng cảm thấy bế tắc. Anh đã xem cuốn băng lậu Đánh Gục Nhà độc tài, một cuốn phim tài liệu thực hiện vào năm 2001 mô tả cuộc đấu tranh của Otpor, liền liên lạc với những người Serbia. Anh theo học vài tuần ở Belgrade vào tháng Tư năm 2009, học xử dụng "biểu đồ quyền lực" (do Djinovic nghĩ ra) để tìm ra điểm yếu trong chính quyền (trong trường hợp Ai Cập, điểm yếu ấy là quân đội), làm thế nào nhắm vào truyền thông và các thể chế khác, và làm thế nào để đối phó lại bằng bất bạo động.

Khi Adel về lại Cairo, anh mang theo nhiều cuốn phim Đánh Gục Nhà độc tài kèm phụ đề tiếng Ả Rập, cùng nhiều sách giáo khoa Canvas. Rồi anh phổ biến rộng rãi ra. Ngay trước khi Mubarak sụp đổ, truyền đơn mà chủ yếu dựa theo những điều giảng dạy của Canvas được in ra ở Cairo, nội dung chính là, như Popovic chỉ ra, " kết thân với cảnh sát và duy trì sự tuân thủ bất bạo động".

"Gandhi phải mất 30 năm để lật đổ chế độ; chúng tôi mất 10 năm; người Tunisia mất một tháng rưỡi; và người Ai Cập mất 19 ngày," Popovic nói. "Đây quả thật là trận đánh thần tốc của dân chủ."

Sau đó trong ngày hôm ấy, chúng tôi đến trường đại học tổng hợp Belgrade để thăm quan phân khoa họ đang thiết lập nơi những sinh viên sau đại học có thể theo học để lấy bằng thạc sĩ về môn chiến lược và các phương pháp thay đổi xã hội bằng bất bạo động. Popovic, giáo sư thỉnh giảng ở đấy, đưa tôi đến truờng trong chiếc xe Mercedes màu xanh ngổn ngang đồ đạc mang biển số 007.

Một chị bạn kể tôi nghe chị mới đây thấy Popovic tại buổi tiệc sinh nhật của một người bạn và suốt buổi tối ở đấy anh cứ ngồi trước ti vi theo dõi các cuộc biểu tình ở Ai Cập với nụ cười nở rộng trên mặt. Anh nói với tôi một khi thành công là thành công thật sự.

Nhưng đấy là sự chọn lựa nghề nghiệp không bình thường: nhà cách mạng. Lúc bị kẹt trong dòng xe cộ dày dặc thường lệ, tôi hỏi anh tại sao anh đeo đuổi nghề cách mạng ấy, tại sao dành một phần ba của năm lặn lội đến tận những nơi xa xăm để giảng dạy những nhà hoạt động dân chủ. Là người trong gia đình có cha mẹ làm nghề báo, anh từng tâm sự khi lớn lên anh đã muốn đi vòng quanh thế giới để thực hiện những bộ phim về cá. Trái với thường lệ anh trầm tư một lát trong khi suy nghĩ câu trả lời.

"Làm việc với các nhà hoạt động dân chủ là công việc tốt đẹp nhất trên hành tinh, " anh đáp." Những người này sẵn sàng chấp nhận biết bao rủi ro -họ không nghĩ về bản thân, mà nghĩ về cuộc đời của con cái họ hay cuộc đời của những thế hệ tương lai..." Anh cắt ngang hai xe khi anh chạy vào làn đường cao tốc. " Tôi không thể nói cho chị hiểu được tôi yêu công việc này biết bao nhiêu. Thấy những người chuyển từ sợ hãi sang say mê, từ tuyệt vọng sang quyết tâm ...thật tuyệt vời."



Làm thế nào lật đổ nhà độc tài một cách ôn hoà

Năm lời khuyên của Canvas:

1. Hãy nghiên cứu kỹ: tức phân tích những trụ ủng hộ ta muốn kéo về phía ta ("những trụ" ở đây có nghĩa là những thể chế và tổ chức rất quan trọng cho sự thay đổi xã hội bằng bất bạo động)

2. Đề ra một viễn kiến rõ ràng cùng với chiến lược cho cuộc đấu tranh -đừng lắng nghe lời khuyên từ nước ngoài

3. Xây dựng sự đoàn kết trong phong trào -đoàn kết về mục đích, đoàn kết trong nhân dân, và đoàn kết trong tổ chức

4. Duy trì sự tuân thủ bất bạo động - một hành động bạo động thôi có thể lam mất đi uy tín của cuộc đấu tranh

5. Luôn luôn ở thế tấn công, hãy chọn những trận đánh ta có thể thắng và chắc chắn ta biết khi nào và làm thế nào công bố chiến thắng



Nguồn: Financial Times 18/3/2011

www.ft.com/cms/s/2/0ad005b4-5043-11e0-9ad1-00144feab49a.html

26.9.11

GIOAN PHAOLÔ II- ĐỪNG SỢ

Trần Quốc Việt trích dịch

Quảng trường Thánh Phêrô
Ngày Chủ Nhật, 22 tháng Mười, 1978



"Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống" (Mátthêu 16:16). Những lời này được Simon, con ông Giôna, ở thành Xêdarê Philípphê, nói ra. Vâng, ông nói ra từ chính miệng mình với niềm xác tín đã sống và trải nghiệm sâu sắc -nhưng lời ấy không khởi nguồn từ trong lòng ông, mà nguồn gốc của lời ấy là: "... vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều này, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên Trời" (Mátthêu 16:17). Những lời nói ra ấy là những lời của Đức tin.

Những lời này đánh dấu sự khởi đầu sứ vụ của Phêrô trong lịch sử cứu chuộc, trong lịch sử của Dân Chúa. Từ thời điểm ấy, từ Tuyên xưng Đức tin ấy, lịch sử thiêng liêng của cứu chuộc và Dân Chúa chắc chắn bắt đầu mang tầm vóc mới: thể hiện mình trong tầm vóc lịch sử của Hội Thánh.

Tầm vóc giáo hội trong lịch sử Dân Chúa có khởi nguồn, đúng hơn được sinh ra, chính từ những lời của Đức tin này, và được gắn bó với người đã thốt ra những lời ấy: "Anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Ðá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy."
Vào ngày này và tại nơi này chính những lời này cần phải được thốt ra và được lắng nghe lần nữa:

"Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống"

Vâng, hỡi các anh em và các con nam và nữ, khởi thuỷ chính là những lời này.

Nội dung của những lời này khải thị trước mắt chúng ta sự mầu nhiệm của Thiên Chúa Hằng sống, sự mầu nhiệm mà Đấng Kitô, Con của Thiên Chúa đã đưa chúng ta đến gần. Thật sự không có ai đã đưa Thiên Chúa Hằng sống đến gần con người và khải thị Thiên Chúa như Đấng Kitô đã làm một mình. Trong tri thức của chúng ta về Thiên Chúa, trong cuộc hành trình của chúng ta hướng về Thiên Chúa, chúng ta hoàn toàn gắn bó với sức mạnh của những lời này:" Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha." Thiên Chúa là Đấng vô cùng, huyền nhiệm, khôn tả, đã đến gần với chúng ta qua Đấng Giêsu Kitô, Người Con duy nhất của Thiên Chúa được sinh ra, được Đức mẹ Maria Đồng trinh sinh hạ trong máng lừa Bê Lem.

Tất cả những ai đang mưu tìm đến Thiên Chúa, tất cả những ai đã vô cùng may mắn tin Thiên Chúa, và tất cả những ai đang bị hoài nghi dày vò: ngày hôm nay tại nơi thiêng liêng này, xin các anh chị em hãy lắng nghe lần nữa những lời được Simon Phêrô nói ra. Trong những lời ấy là đức tin của Hội Thánh. Trong chính những lời ấy là chân lý mới, đúng ra, là chân lý cuối cùng và cao quý nhất về con người: con Thiên Chúa Hằng sống -"Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng sống."

Ngày hôm nay đức Giám mục mới của Rôma long trọng bắt đầu Thánh chức của mình cùng sứ vụ của Phêrô. Thực ra, tại thành phố này, Phêrô đã hoàn tất và đã làm tròn sứ mạng Đức Chúa đã phó thác cho ông. Đức Chúa đã nói trực tiếp với ông những lời này:"...lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy và đi đâu tuỳ ý; nhưng khi về già anh sẽ phải giang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn" (Gioan 21:18).

Phêrô đến Rôma!

Còn điều gì khác hơn nữa ngoài sự tuân theo linh hứng nhận được từ Đức Chúa đã dẫn dắt ông và đưa ông đến thành phố này, trung tâm của Đế quốc? Có lẽ người dân chài miền Galilê ấy đã không muốn đến đây. Có lẽ ông thích ở lại nơi chốn xưa ấy, trên bờ Hồ Ghennêxarét, với thuyền và lưới của mình. Nhưng dưới sự dẫn dắt của Đức Chúa, tuân theo linh hứng của Người, ông đã đến đây!

Theo truyền thuyết xưa được lưu truyền ( được tái hiện kỳ diệu qua văn chương trong tiểu thuyết của Henryk Sienkiewicz), Phêrô muốn rời khỏi Rôma trong thời bách hại đạo của Nero. Nhưng Đức Chúa đã can dự: Đức Chúa đi gặp ông. Phêrô thưa chuyện với Đức Chúa rồi hỏi. "Quo vadis, Domine?" nghĩa là " Lạy Đức Chúa, Đức Chúa đang đi đâu?" Đức Chúa trả lời ông tức thì: "Thầy vào thành Rôma để chịu đóng đinh trên thập giá lần nữa." Phêrô liền quay trở lại Rôma và ở lại nơi này cho đến ngày ông bị đóng đinh trên thập giá.

Vâng, hỡi các anh em và các con nam và nữ, Rôma là Tòa Thánh của Phêrô. Trải qua suốt qua bao nhiêu thế kỷ những bậc giám mục mới không ngừng kế vị ông tại Toà Thánh này. Ngày hôm nay một giám mục mới đến Toà thánh của Phêrô ở Rôma, một giám mục mới lòng đầy lo sợ, xét mình thật không xứng đáng. Ai lại không run rẩy trước ơn gọi cao cả này và trước sứ mạng phổ quát của Toà Thánh Rôma!

Kế vị chức giám mục của Phêrô ngày hôm nay là giám mục không phải người Rôma. Giám mục là người con của Ba Lan. Nhưng từ giây phút này ông cũng trở thành người Rôma. Vâng- người Rôma. Ông là người Rôma cũng vì ông là con của một nước nơi lịch sử, ngay từ buổi bình minh đầu tiên, nơi truyền thống ngàn năm đều in dấu mối liên hệ hằng sống, mạnh mẽ, bền vững, và được cảm nhận sâu sắc với Toà thánh của Phê rô, một nước mãi mãi trung thành với Toà Thánh Rôma. Huyền nhiệm thay sự an bài của Thiên Chúa Quan phòng!

Trong những thế kỷ qua, khi các bậc kế vị Phêrô cai quản toà thánh của ông, triregnum hay ngọc miện được đội lên đầu của họ. Đức Giáo hoàng cuối cùng được đội ngọc miện là Phaolô VI vào năm 1963, nhưng sau lễ gia miện trang nghiêm ấy ông không bao giờ dùng đến ngọc miện nữa và để cho những bậc kế vị ông tự do quyết định chuyện này.

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô I, mà ký ức về người vẫn còn sống động trong lòng chúng ta, đã không muốn dùng ngọc miện; ngày hôm nay người kế vị ông cũng không muốn dùng đến. Đây không phải là lúc trở lại lễ và vật vốn được coi không đúng là biểu tượng của quyền lực thế tục của các Giáo hoàng.

Thời đại của chúng ta kêu gọi chúng ta, thúc giục chúng ta, buộc chúng ta nhìn chăm chú vào Đức Chúa và đắm mình trong suy niệm khiêm nhường và ngoan đạo về sự mầu nhiệm của quyền năng tối cao của chính Đấng Kitô.

Người, được hạ sinh từ Đức mẹ Maria Đồng trinh, Con của người thợ mộc (như người đời tưởng thế), Con của Thiên Chúa hằng sống (được Phêrô xác tín), đã đến để làm cho tất cả chúng ta là "một vương quốc tư tế".

Cộng đồng Vatican Thứ hai đã nhắc chúng ta về sự mầu nhiệm của quyền năng này và về sự thật rằng sứ vụ của Đấng Kitô với cương vị Tư tế, Ngôn sứ - Thầy dạy và Vua vẫn tiếp tục trong Hội Thánh. Tất cả mọi người, toàn thể Dân Chúa, đều dự phần trong sứ vụ ba cách này. Có lẽ trong quá khứ, ngọc miện, vương miện ba tầng này, được đội lên đầu của Giáo hoàng để qua biểu tượng đó thể hiện kế hoạch của Đức Chúa cho Hội Thánh của Người, cụ thể tất cả các phẩm trật của Hội Thánh của Đấng Kitô, tất cả " quyền năng thiêng liêng" được thực thi trong Hội Thánh, là không có gì khác hơn ngoài sự phụng sự, phụng sự với mục đích duy nhất: đảm bảo rằng toàn thể Dân chúa đều dự phần trong sứ vụ ba cách này của Đấng Kitô và luôn luôn dưới quyền năng của Đức Chúa, một quyền năng có cội nguồn không phải từ quyền lực của thế gian này mà từ sự mầu nhiệm của Thánh giá và Phục sinh.

Quyền năng tuyệt đối nhưng êm dịu ngọt ngào của Đức Chúa đáp ứng với toàn bộ chiều sâu của con người nhân tính, với những nguyện vọng cao đẹp nhất của con người về trí tuệ, ý chí và tình yêu. Quyền năng ấy không nói bằng ngôn ngữ của vũ lực mà thể hiện mình qua bác ái và chân lý.

Người kế vị Phêrô mới ở Toà Thánh Rôma, ngày hôm nay xin dâng lời cầu nguyện thiết tha, khiêm nhường và tin tưởng: con cầu nguyện Đấng Kitô cho con trở thành tôi tớ và mãi mãi là tôi tớ của quyền năng độc nhất của Người, tôi tớ của quyền năng ngọt ngào của Người, tôi tớ của quyền năng không biết đến chiều tà của Người. Hãy cho con được làm tôi tớ, tôi tớ của những tôi tớ của Người.

Hỡi các anh chị em, đừng sợ đón mừng Đấng Kitô và đón nhận quyền năng của Người. Hãy giúp Đức Giáo hoàng và tất cả những ai muốn phục vụ Đấng Kitô và qua quyền năng của Đấng Kitô phục vụ con người nhân tính và toàn thể nhân loại. Hãy đừng sợ. Hãy mở rộng cửa ra đón Đấng Kitô. Hãy mở ra trước quyền năng cứu rỗi của Người những giới tuyến của các Nhà nước, những hệ thống kinh tế và chính trị, những cánh đồng bát ngát của văn hoá, văn minh và tiến bộ. Hãy đừng sợ. Đấng Kitô biết "có gì trong lòng con người". Chỉ mình Người biết điều này.

Đôi khi ngày nay con người không biết có gì trong lòng mình, trong sâu thẳm tâm hồn mình. Đôi khi con người không chắc chắn về ý nghĩa của cuộc đời mình trên thế gian này. Con người bị hoài nghi dày vò, rồi hoài nghi biến thành tuyệt vọng. Cho nên chúng tôi kêu gọi các anh chị em, với tất cả tin tưởng và khiêm nhường chúng tôi van xin các anh chị em, hãy để Đấng Kitô nói với con người. Chỉ mình Người có lời của sự sống, đúng, lời của sự sống đời đời.

Chính xác vào ngày hôm nay toàn thể Hội Thánh đang mừng " Ngày Sứ vụ Thế giới"; nghĩa là, Hội Thánh đang cầu nguyện, suy niệm và hành động để cho lời của sự sống của Đấng Kittô có thể đến với tất cả mọi người và được tất cả mọi người đón nhận như một thông điệp của hy vọng, cứu chuộc, và giải phóng hoàn toàn.



Nguồn: Trang nhà của Toà Thánh Vatican

Những đoạn trích dẫn in nghiêng người dịch lấy từ bản dịch Việt Ngữ của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ.

Người dịch chân thành cảm ơn sâu sắc các dịch giả của nhóm phiên dịch.

22.9.11

NHỮNG THẾ HỆ NGỒI CHỜ

Trần Quốc Việt


Việt Nam chúng ta ngày nay là một đất nước của những thế hệ ngồi chờ.

Chúng ta đã bắt đầu chờ những lời hứa hão. Đó là độc lập, tự do, và hạnh phúc.

Chúng ta vẫn chờ độc lập khi những phần đất của tổ quốc đang trong tay Trung Quốc, khi lãnh đạo Việt Nam đang gập người hướng về Thiên triều để chờ được rót ban ân huệ "độc lập" nửa vời.

Chúng ta vẫn chờ tự do nhưng tự do không bao giờ đến cho đa phần tâm hồn nô lệ trong chúng ta. Những ai chờ không được đã lìa xứ ra đi ngay từ ngay từ đầu; những ai nán lại thì về sau qua muôn vàn cách họ cũng lên đường tìm tự do. Những ai ở lại thấy nữ thần Tự do trong lòng mình run rẩy trước bóng công an.

Hạnh phúc là sự mưu cầu chỉ có thể đạt được nếu chúng ta có được độc lập và tự do đích thực vì chúng là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm hạnh phúc cho tất cả mọi người. Bản Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ khẳng định con người có các quyền thiêng liêng như quyền sống, quyền tự do, nhưng hạnh phúc thì phải mưu cầu. Hạnh phúc là sự mưu cầu dựa trên tài năng, tính cách, và nhất là sự lao động nhưng hạnh phúc không bao giờ có cho đại đa số khi độc lập và tự do không tồn tại. Hạnh phúc không phụ thuộc vào giàu nghèo. Hạnh phúc phụ thuộc chính vào tự do như lời của một vị thẩm phán ở Toà án Tối cao Hoa Kỳ cách đây hơn tám mươi năm:

"Những người đã giành độc lập cho chúng ta tin rằng cứu cánh cuối cùng của nhà nước là tạo tự do cho con người phát triễn hết mọi khả năng ...Họ coi trọng tự do vừa như là cứu cánh vừa như là phương tiện. Họ tin tự do là bí quyết của hạnh phúc và can đảm là bí quyết của tự do."

Cho nên chúng ta hiểu tại sao dân chúng ở các nước toàn trị đa phần không có hạnh phúc như có đến 94% dân Trung Quốc không có hạnh phúc dù cuộc sống của hàng triệu người trở nên khá hơn. Còn hạnh phúc của người dân Việt ở đâu khi đạo đức bị trốc rễ, khi cuộc sống là sự mưu sinh đầy nhọc nhằn, khi sợ hãi và lòng bất an theo ta khi ta thức dậy và theo ta vào giấc ngủ, khi ta thấy ngộp trước hiện tại và ngộp hơn khi nghĩ đến tương lai.

Vì chúng ta không có can đảm nên chúng ta chấp nhận số phận nhưng chúng ta trong lòng vẫn thiết tha chờ ngày mai trời sáng hơn. Những thế hệ Việt Nam chờ mãi. Chúng ta chờ giáo dục tốt hơn khi con chúng ta phải đu dây, phải bơi qua sông để kiếm chữ. Chúng ta chờ đường xá tốt hơn khi lô cốt vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt và khi đường xuống cấp còn nhanh hơn mưa. Chúng ta chờ bớt tham nhũng hơn dù khi chúng ta phải bắt đầu chung chi theo tháng và theo năm và khi chúng ta hiểu đó là thứ khổ tất yếu mà ta phải chấp nhận thêm vào những thứ khổ triền miên như sinh, tử, bệnh,lão. Quan trọng nhất chúng ta chờ tự do.

Chúng ta chờ từ tóc xanh đến tóc bạc, chờ từ nhà ra nghĩa địa. Chúng ta không được lạc quan như "lãnh tụ" khi ông viết ra câu "thơ" "Ngồi trên hồ xí đợi ngày mai". Nhưng chúng ta được phép thực thi quyền ngồi chờ của chúng ta một cách kiên nhẫn.

Vì quá quen chờ nên không ai ngạc nhiên khi chúng ta bắt đầu có thói quen ngồi chờ yêu nước trong công viên hay trong quán nước. Thử hỏi trên thế giới này có ai chờ được như ta? Có nước nào mà lòng yêu nước phải ngồi chờ không? Câu trả lời là có nếu người dân nước ấy tự xem mình là nô lệ, vì thân phận nô lệ chỉ quan tâm đến con roi mà không quan tâm đến kẻ cầm roi.

Ước gì chúng ta đừng có con để tránh kéo dài cuộc đời nô lệ khốn khổ của chúng. Hãy nhìn vào mặt các con mỗi ngày để thấy rằng hiện tại của chúng ta in hằn trên nét mặt tương lai của chúng. Rồi chúng cũng chờ như ta vì thế hệ cha anh không có can đảm không chờ.

Chúng ta là chiếc bóng của lịch sử. Khi chúng ta ngồi chờ lịch sử ngồi chờ theo, khi chúng ta hành động lịch sử bắt đầu trở mình, và khi chúng ta sợ hãi triền miên lịch sử sẽ đứng yên. Nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn viết: "Nếu chúng ta chờ đợi lịch sử ban cho chúng ta tự do và những món quà quý giá khác, chúng ta có nguy cơ chờ đợi trong vô vọng. Lịch sử là chúng ta."

Vâng, lịch sử là chúng ta nhưng chúng ta khôn ngoan chờ người khác đi trước. Thế là tất cả chúng ta ngồi ngó nhau và chờ lẫn nhau. May thay lịch sử cũng rất kiên nhẫn chờ theo. Bóng đèn cuối cùng tắt trên ga Chờ nhưng chuyến tàu Lịch sử sao vẫn chưa chuyển bánh?

Lẫn trong khói hương và bao khóc than tiễn đưa ta lần cuối cùng về thế giới bên kia là ánh mắt của con cháu ta trách ta không làm gì cả để hôm nay chúng cũng phải bắt đầu chờ đợi như ta. Linh hồn nào phiêu diêu nổi trong niềm đau uất nghẹn sau lưng ấy.

19.9.11

BRUCE BUENO De MESQUITA và ALASTAIR SMITH-ĐỘC TÀI SỐNG ĐƯỢC NHỜ ĐÂU?

Trần Quốc Việt dịch

Tại sao có những nhà độc tài trụ được trong khi những nhà độc tài khác sụp đổ? Suốt trong chiều dài lịch sử, những công dân bị chà đạp đều cố gắng hất tung ách nô lệ mà những kẻ áp bức áp tròng lên cổ họ, nhưng các cuộc cách mạng, giống như những cuộc cách mạng đang tràn qua thế giới Ả Rập, lại thường hiếm.

Các bạo chúa cai trị vẫn giữ vững quyền lực nhờ ban thưởng cho một nhóm nhỏ các kẻ trung thành, thường thường gồm có các viên chức quân đội quan trọng, các công chức cấp cao và những người thân trong gia đình hay thân tộc. Trách nhiệm chính của những kẻ trung thành này là đàn áp phong trào phản kháng chế độ. Nhưng họ chỉ thực hiện nhiệm vụ bẩn thỉu, xấu xa này nếu họ được thưởng công hậu hỉ. Do vậy các nhà độc tài cần bảo đảm các nguồn lợi chảy đều đặn liên tục vào túi riêng của những kẻ thân tín.

Nếu những kẻ ủng hộ nhà độc tài từ chối đàn áp các cuộc nổi dậy tập thể hay nếu họ đào thoát sang phía đối thủ, thì nhà độc tài ấy thật nguy đến nơi. Vì thế các nhà độc tài thành công đều ban thưởng cho những kẻ thân tín trước rồi cuối cùng mới đến nhân dân. Chừng nào những kẻ thân tín của họ còn được bảo đảm về nguồn thu nhập béo bở chắc chắn, các cuộc biểu tình sẽ bị đàn áp thẳng tay. Nhưng một khi quần chúng nghi ngờ lòng trung thành của đám thuộc hạ và thân tín ấy đang đến hồi lung lay, cuộc nổi dậy có cơ hội thành công. Ba loại kẻ cai trị đặc biệt dễ bị những kẻ ủng hộ họ bỏ rơi: đó là những kẻ cai trị mới, già yếu, và khánh kiệt.

Những nhà độc tài mới an vị không biết lấy tiền ở đâu ra hay họ không biết có thể mua được lòng trung thành chắc chắn của ai với giá rẻ. Cho nên, trong những lúc chuyển tiếp quyền lực, những người khởi xướng cuộc cách mạng có thể nhân cơ hội đó lật đổ chế độ mới còn non yếu.

Nguy cơ càng lớn hơn chờ chực sẵn nhà độc tài già nua khi các kẻ thân tín của y không còn trông mong y tiếp tục ban phát đặc quyền và tiền công để bảo đảm sự ủng hộ của họ. Họ biết người chết rồi hết trả. Cho nên già yếu làm vơi dần lòng trung thành, từ đấy có nhiều khả năng các lực lượng an ninh sẽ ngồi không hơn là chặn đứng cuộc nổi dậy, qua đó tạo cho quần chúng một cơ hội thật sự để nổi loạn. Đây chính là những gì đã gây ra sự sụp đổ của các chế độ độc tài ở Philippines, Zaire và Iran.

Ngoài các tin đồn đáng lo âu về sức khoẻ của Zine el-Abidine Ben Ali và Hosni Mubarak, Tunisia và Ai Cập còn gánh chịu những vấn đề kinh tế nghiêm trọng mà làm nhen nhúm cuộc nổi dậy. Giá thóc và nhiên liệu ngày càng tăng, nạn thất nghiệp, đặc biệt trong tầng lớp có học, ngày càng cao và, riêng trường hợp Ai Cập, nguồn viện trợ từ Mỹ bị giảm sút đáng kể (sau này Tổng thống Obama tăng lại như cũ). Giới quân đội ủng hộ ông Mubarak, tức những kẻ hưởng lợi từ nguồn viện trợ ấy, lo sợ rằng ông ta không còn là nguồn thu nhập chắc chắn cho họ nữa.

Khi tiền trở nên khan hiếm, lãnh đạo không thể trả cho những kẻ thân tín như trước, vì thế không có ai đứng ra ngăn cản nhân dân nếu họ nổi loạn. Đây chính là điều đã diễn ra trong các cuộc cách mạng Nga và Pháp và trong sự sụp đổ của ách cai trị cộng sản ở Đông Âu - và đây cũng chính là lý do chúng tôi đã tiên đoán sự sụp đổ của ông Mubarak trong một lần nói chuyện với các nhà đầu tư vào tháng Năm vừa qua.

Mối đe doạ hiện nay đối với chế độ cai trị của Bashar al-Assad ở Syria có thể được xem xét trong cùng hoàn cảnh. Với mức thâm hụt năm 2011 dự đoán độ 7 phần trăm G. D. P., nguồn thu nhập từ dầu lửa giảm và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao trong giới trẻ, ông Assad đang đối mặt với những điều kiện chín mùi cho cuộc cách mạng. Hôm nay ông có thể đánh vỡ đầu người dân, nhưng chúng tôi tin chắc rằng hoặc ông cuối cùng sẽ ban hành những cải cách khiêm nhường hay sẽ có người thay thế ông làm việc ấy.

Bắt chước cũng đóng vai trò quan trọng trong thời cách mạng. Khi nhân dân biết các nhà lãnh đạo ở các nuớc lân cận không thể mua được lòng trung thành, họ liền hiểu rằng họ cũng có thể có một cơ hội. Song điều ấy không phải nhất thiết đưa đến các cuộc cách mạng tương tự. Tại nhiều nước, nhất là Các Nước Vùng Vịnh giàu nhờ dầu hoả thì từ xưa đến nay một là không có biểu tình hai là biểu tình bị trấn áp dữ dội. Chẳng hạn, tại Bahrain, 60 phần trăm thu nhập của chính quyền xuất phát từ khu vực kinh tế dầu khí; vì thế những nhà lãnh đạo của nước này đối mặt với ít rủi ro khi đối phó với các cuộc biểu tình bằng sự trấn áp khốc liệt.

Điều này là vì các nhà độc tài ở các nước giàu tài nguyên đều có sẵn một nguồn thu nhập chắc chắn để ban thưởng cho những kẻ thân tín- và trấn áp không tổn hại đến nguồn tiền mặt có sẵn này. Của cải từ tài nguyên tự nhiên cắt nghĩa tại sao Robert Mugabe ở Zimbabwe tuy hơn tám mươi tuổi nhưng vẫn không tỏ dấu hiệu nào sẽ từ chức và đại tá Muammar el-Qaddafi ở Libya ngay từ đầu chẳng màng nói bóng gió gì đến sự thoả hiệp. Tuy nhiên, khi bom NATO rơi trên Tripoli đại tá Qaddafi chợt nhận ra ông cần thuyết phục những kẻ trung thành còn sót lại rằng ông có thể tái thiết lập sự kiểm soát các mỏ dầu của Libya nếu không họ rồi cũng sẽ bất ngờ đánh lại ông. Buồn thay, nếu phe nổi loạn thắng, họ cũng có thể bóp nghẹt tự do để dảm bảo sự kiểm soát của họ về tài nguyên dầu hoả.

Các chế độ giàu tài nguyên tự nhiên hay nhận được rất nhiều viện trợ từ nước ngoài có thể sẵn sàng bóp nghẹt tự do ngôn luận, tự do báo chí và, quan trọng nhất, quyền hội họp. Ngược lại, các nhà lãnh đạo các nước nghèo tài nguyên không thể dễ dàng hạn chế sự vận động dân số nếu không đồng thời khiến cho công việc sản xuất khó khăn đến nổi họ tự cắt đứt nguồn thu nhập thuế mà họ cần để mua lòng trung thành.

Những nhà lãnh đạo ở những nước như thế thấy mình lâm vào cảnh tiến thoái lưỡng nan và nếu khôn ngoan thì họ nên nới lỏng hơn trước để tránh cái hoạ về sau. Đây là lý do chúng tôi kỳ vọng trong vài năm tới các nước như Morocco và Syria sẽ cải cách cho dù phản ứng ban đầu của họ trước cuộc biểu tình là đàn áp. Chúng ta cũng nên dành niềm cổ vũ tương tự cho quá trình dân chủ hoá ở nhiều nước không có dự trữ tài nguyên tự nhiên như Trung Quốc và Jordan -điềm gở cho các nhà cai trị chuyên chế nhưng tin vui cho tất cả quần chúng bị áp bức trên toàn thế giới.


Bruce Bueno de Mesquita và Alastair Smith là các giáo sư ở Newyork University và là đồng tác giả tác phẩm " Cẩm nang của nhà độc tài".

Nguồn: New York Times 9/6/2011
www.nytimes.com/2011/06/10/opinion/10DeMesquita.html

10.9.11

Quê Hương

Trần Quốc Việt

(Phỏng theo bài thơ "Quê hương" của Đỗ Trung Quân)


Quê hương là gì hở mẹ
Mà cô giáo dạy cố yêu
Quê hương là gì hở mẹ
Ai đi xa cũng vui nhiều

Quê hương là chùm khế ngọt
Cho quan trèo hái mỗi ngày
Quê hương là đường đi học
Con về nặng tập trên vai

Quê hương là con diều biếc
Tuổi thơ con ngóng thèm thuồng
Quê hương là con đò nhỏ
Sương rơi chờ khách đêm khuya

Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về bóng đổ hắt hiu
Quê hương là vòng tay lạnh
Bơ vơ bao kẻ bên lề

Quê hương là bến nước lạ
Phận gái trôi dạt trời xa
Quê hương là luồng cá bạc
Máu rơi thấm đẫm khoang thuyền

Quê hương là ngày mưa lớn
Thương cha vất vả trên đường
Quê hương là đêm trăng lạnh
Em thơ ngủ mệt bên thềm

Quê hương nếu ai lên tiếng
Sẽ không thoát khỏi lao tù
Quê hương nếu ai hờ hững
Tủi lòng lịch sử ngàn xưa

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một Đảng thôi

RONALD REAGAN- ĐẾ QUỐC ÁC

Ronald Reagan (1911-2004) là một trong những vị Tổng thống Hoa Kỳ tài ba nhất và nổi tiếng nhất. Ông là một trong số ít người có công rất lớn trong việc đánh bại chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Năm 1983 ông đọc một bài diễn văn trước Hội nghị Phúc âm quốc gia tại thành phố Orlando, tiểu bang Florida. Bài diễn văn "Đế Quốc Ác " này đã gây ra làn sóng bất bình lớn trong khối cộng sản, nhất là Liên Xô ,và cả ngay ở Mỹ vì một số người sợ rằng chiến tranh sẽ nổ ra giữa hai siêu cường. Tổng thống Reagan là vị nguyên thủ quốc gia đầu tiên trên thế giới đã nói ra sự thật trần trụi rằng Liên Xô là đế quốc Ác. Như nhà văn Anh Geogre Orwell từng nói trong thời dối trá phổ quát nói ra sự thật là một hành động cách mạng.Tổng thống Reagan bằng can đảm của mình đã nói ra một sự thật mà từ đấy đưa đến sự sụp đổ của các chế độ toàn trị cộng sản.

Trần Quốc Việt trích dịch

Bây giờ, rõ ràng, đa phần sự đồng thuận về chính trị và xã hội mà tôi đã đề cập đến đều được dựa trên quan điểm tích cực về lịch sử Mỹ, một lịch sử đáng tự hào về những thành tựu và ưu việt. Nhưng chúng ta không bao giờ được quên rằng không có chương trình hành động nào của chính phủ sẽ làm cho con người trở nên hoàn thiện. Chúng ta biết sống trên đời này có nghĩa là chấp nhận điều mà các triết gia gọi là hiện tượng luận về cái ác hay, như các nhà thần học diễn tả, giáo lý về tội lỗi.

Ác và thiện luôn luôn hiện diện ở trên đời, và chúng ta được Kinh thánh và Đức Chúa Jesus răn hãy chống lại cái ác bằng tất cả sức mạnh của mình. Quốc gia của chúng ta cũng có di sản của cái ác mà cần phải giải quyết. Từ xưa đến nay vinh quang của đất nước này chính là khả năng vượt qua bao cái ác về đạo lý trong quá khứ của mình. Chẳng hạn, cuộc đấu tranh lâu dài của những công dân thiểu số đòi các quyền bình đẳng, vốn từng là cội nguồn của sự chia rẽ và nội chiến, giờ đây lại là điều tự hào cho tất cả những người Mỹ. Chúng ta không được lùi bước. Đất nước này không có chỗ cho kỳ thị chủng tộc, chủ nghĩa bài Do Thái, hay những hình thức hận thù sắc tộc và chủng tộc khác.

Nhưng cho dù các trang sử buồn nào tồn tại trong quá khứ chăng nữa, bất kỳ ai khách quan nhận xét đều phải có quan điểm tích cực về lịch sử Mỹ, một lịch sử đã trở thành câu chuyện xưa nay về bao hy vọng được toại nguyện và bao giấc mơ thành hiện thực. Nhất là trong thế kỷ này, nước Mỹ đã gìn giữ ngọn lửa của đuốc tự do, nhưng giữ lửa không phải cho mình mà cho hàng triệu người khác trên toàn thế giới.

Và điều này đưa tôi đến phần cuối cùng trong bài diễn văn hôm nay. Trong cuộc họp báo lần đầu tiên trên cương vị Tổng thống, để trả lời cho một câu hỏi trực tiếp, tôi đã chỉ ra rằng, với tư cách là những người Mác-xít Lê nin nít tốt, các nhà lãnh đạo Xô viết đã tuyên bố công khai và minh bạch rằng đạo đức duy nhất họ thừa nhận là đạo đức sẽ đẩy mạnh sự nghiệp của họ, tức cách mạng thế giới. Tôi nghĩ tôi nên nói rõ ra rằng tôi đã chỉ đang trích dẫn Lê nin, tinh thần hướng dẫn của họ,người mà vào năm 1920 nói rằng họ bác bỏ tất cả các đạo đức xuất phát từ các tư tưởng siêu nhiên--tức là tên họ đặt cho tôn giáo --hay những tư tưởng bên ngoài các khái niệm giai cấp. Đạo đức là hoàn toàn phụ thuộc vào quyền lợi của cuộc chiến tranh giai cấp. Cho nên tất cả những gì cần thiết cho sự tiêu diệt trật tự xã hội bóc lột cũ và cho sự đoàn kết những người vô sản lại đều được coi là đạo đức.

Từ đấy tôi nghĩ việc nhiều người có tầm ảnh hưởng lớn từ chối thừa nhận sự thật cơ bản này của học thuyết Xô Viết minh hoạ sự miễn cưỡng lịch sử nhìn thấy bản chất thật sự của các chính quyền toàn trị. Chúng ta đã nhìn thấy hiện tượng này trong thập niên 1930. Ngày nay chúng ta cũng nhìn thấy hiện tượng này rất nhiều lần.

Điều này không có nghĩa chúng ta nên tự cô lập và từ chối mưu tìm sự cảm thông với họ. Tôi có ý định làm tất cả mọi thứ tôi có thể làm nhằm thuyết phục họ mục đích hoà bình của chúng ta, nhắc cho họ nhớ rằng chính Phương tây từ chối xử dụng độc quyền hạt nhân của mình trong thập niên bốn mươi và năm mươi để tranh đoạt lãnh thổ và hiện nay đề nghị cắt giảm 50 phần trăm hoả tiễn đạn đạo chiến lược và loại bỏ hoàn toàn loại hoả tiễn hạt nhân tầm trung đặt trên đất liền.

Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta phải làm cho họ hiểu rằng chúng ta nhất định không bao giờ thoả hiệp các nguyên tắc và tiêu chuẩn của chúng ta. Chúng ta nhất định không bao giờ cho không tự do của chúng ta. Chúng ta nhất định không bao giờ từ bỏ niềm tin vào Chúa. Hơn nữa chúng ta nhất định không bao giờ ngưng tìm kiếm một nền hoà bình đích thực. Nhưng chúng ta không thể đảm bảo cho bất kỳ điều nào trong các điều mà Mỹ luôn luôn tượng trưng này qua cái gọi là các giải pháp ngưng phát triễn vũ khí hạt nhân do một số người đề nghị.

Sự thật là ngưng bây giờ sẽ là một sự gian lận rất nguy hiểm, vì đó chỉ là ảo tưởng về hoà bình. Hiện thực là chúng ta phải tìm hoà bình qua sức mạnh.

Tôi sẽ đồng ý ngưng chỉ nếu chúng ta có thể ngưng tất cả các tham vọng của Xô viết. Ngưng ở mức độ vũ khí hiện nay sẽ khiến cho những người Xô viết không thấy bất kỳ khích lệ nào để thương lượng nghiêm túc ở Geneva và chúng ta thật sự không còn các cơ hội đạt được sự cắt giảm vũ khí quan trọng mà chúng ta đã đề nghị. Ngược lại, nhờ việc ngưng như thế họ sẽ đạt được các mục tiêu của họ.

Ngưng phát triễn vũ khí hạt nhân sẽ thưởng cho Liên Xô về sự phát triễn quân sự cực kỳ lớn và không ai bì được của họ. Ngưng như thế sẽ ngăn cản sự hiện đại hoá thiết yếu và quá muộn của quốc phòng đồng minh và Hoa Kỳ và sẽ làm cho lực lượng vũ trang già cỗi của chúng ta ngày càng dễ bị tổn thương. Và một sự ngưng trung thực sẽ cần rất nhiều sự thương lượng trước đó về hệ thống và số lượng phải được hạn chế và về những biện pháp nhằm đảm bảo sự xác minh và sự tuân thủ có hiệu quả. Cho nên ngưng kiểu như được đề nghị sẽ hầu như không thể nào xác minh được. Một nỗ lực quan trọng như thế sẽ khiến chúng ta hoàn toàn không tập trung vào những thương lượng hiện nay của chúng ta để đạt đến những cắt giảm đáng kể.

Cách đây nhiều năm, tôi nghe một người cha trẻ, một người trẻ rất nổi tiếng trong giới giải trí, phát biểu trước một đám đông rất lớn ở California. Ngày đó trong thời chiến tranh lạnh, và chủ nghĩa cộng sản và nếp sống của chúng ta đè nặng trong tâm tưởng của mọi người. Và anh ta nói về chủ đề đó. Rồi bỗng đột nhiên tôi nghe anh nói, "Tôi yêu những đứa con gái bé bỏng của tôi hơn tất cả mọi thứ ---" Tôi liền nhủ thầm, " Thôi hỏng rồi, đừng. Anh không thể --không nói thế được." Nhưng tôi đã đánh giá thấp anh. Anh nói tiếp:" Tôi thà thấy các con của tôi chết ngay lúc này, tuy nhiên vẫn còn tin ở Chúa, còn hơn thấy chúng lớn lên dưới chế độ cộng sản rồi một ngày kia chết đi không còn tin ở Chúa."

Trong đám thính giả ấy có đến hàng ngàn người trẻ. Họ đứng lên hoan hô vui sướng. Họ đã nhận ra tức thì sự thật sâu xa trong lời anh ta vừa nói, sự thật về thân xác và linh hồn và về điều gì thật sự quan trọng.

Vì thế, chúng ta hãy cầu nguyện cho sự cứu rỗi của tất cả những ai hiện sống trong bóng tối toàn trị đó -- cầu nguyện rằng họ sẽ khám phá niềm vui biết Chúa. Nhưng cho tới lúc đó, chúng ta hãy ý thức rằng trong khi họ rao giảng bản chất ưu việt của nhà nước họ, tuyên bố quyền toàn năng của nhà nước áp đặt lên con người cá nhân, và tiên đoán sự thống trị cuối cùng của nhà nước lên trên tất cả các dân tộc trên Trái Đất, họ chính là tâm điểm của cái ác trong thế giới hiện đại.

Chính C.S.Lewis, trong tác phẩm "Screwtape Letters", đã viết: " Cái ác lớn nhất bây giờ không được gây ra trong những "hang ổ tội ác" bẩn thỉu hôi hám mà Dickens thích miêu tả. Nó lại càng không được gây ra trong các trại tập trung và các trại lao động. Tại những nơi đó chúng ta chỉ thấy kết quả cuối cùng của nó. Nhưng nó được thai nghén và được ra lệnh (được truyền đi, được ủng hộ, được thực hiện và được ghi lại) trong những căn phòng làm việc sạch sẽ, ấm cúng, có thảm êm và đèn sáng, bởi những người trầm lặng áo trắng tinh, móng tay cắt ngắn, má cạo láng, những người không cần lớn tiếng."

Cho nên, vì "những người trầm lặng này" không "lớn tiếng", vì họ đôi lúc nói giọng êm ái mượt mà về tình huynh đệ và hoà bình, vì, giống như những nhà độc tài trước họ, họ luôn luôn "đòi lãnh thổ cuối cùng", một số người bắt chúng ta tin những lời họ nói và chiều theo bản năng hiếu chiến của họ. Nhưng nếu lich sử dạy chúng ta điều gì, lịch sử dạy ta rằng sự xoa dịu xuẫn ngốc haymơ ước hão huyền về đối thủ của chúng ta thực là khờ dại. Điều đấy có nghĩa là phản bội quá khứ của chúng ta, hoang phí tự do của chúng ta.

Vì thế, tôi kêu gọi quý vị hãy lên tiếng chống lại những kẻ muốn đặt Hoa Kỳ vào vị trí thấp kém về đạo đức và quân sự. Vì thế, khi thảo luận về các đề nghị ngưng vũ khí hạt nhân, tôi kêu gọi quý vị hãy coi chừng sự quyến rũ của lòng kiêu hãnh -- sự quyến rũ khi vô tâm tuyên bố mình hoàn toàn đứng trên chuyện này và gán cho cả hai phía lỗi lầm như nhau, khi bỏ qua những sự thật của lịch sử và bản năng hiếu chiến của đế quốc Ác, khi dại dột gọi cuộc chạy đua vũ trang là một sự hiểu lầm lớn và qua đó tự tách rời mình ra khỏi cuộc đấu tranh giữa đúng và sai và giữa thiện và ác.

Tuy sức mạnh quân sự của Mỹ quan trọng, để tôi nói thêm ở đây rằng tôi trước sau luôn luôn khẳng định cuộc đấu tranh hiện nay đang diễn ra trên thế giới sẽ không bao giờ được quyết định bởi bom đạn hay hỏa tiễn, bởi quân đội hay sức mạnh quân sự. Khủng hoảng thật sự chúng ta đối mặt ngày nay là cuộc khủng hoảng tinh thần; cội rễ của nó là sự thử thách ý chí đạo đức và đức tin.

Whittaker Chambers, người mà nhờ sự trở lại đạo đã ra làm nhân chứng cho một trong những vụ gây chấn động khủng khiếp trong thời đại của chúng ta, vụ án Hiss-Chambers, viết rằng cuộc khủng hoảng của Thế giới Tây phương tồn tại tới mức độ Tây phương thờ ơ với Chúa, tới mức độ mà Tây phương hợp tác trong nỗ lực của chủ nghía cộng sản để làm cho con người đứng bơ vơ không có Chúa. Rồi ông nói, vì chủ nghĩa Mác-xít Lê nin nít thực sự là tín ngưỡng xưa thứ hai, đầu tiên đã được tuyên bố trong Vườn Địa Đàng qua những lời đầy quyến rũ, "Các ngươi sẽ nên như các chúa". Thế giới Tây phương có thể đối phó lại thách thức này, ông viết, " nhưng chỉ miễn là lòng tin của Tây phương vào Chúa và vào tự do Người ban cho lớn bằng lòng tin của chủ nghĩa cộng sản vào Con người." (1)

Tôi tin chúng ta sẽ vươn lên để đối phó lại thách thức ấy. Tôi tin chủ nghĩa cộng sản là một chương buồn, kỳ quặc khác trong lịch sử con người mà những trang cuối cùng của chương ấy thậm chí hiện nay đang được viết. Tôi tin điều này vì nguồn gốc sức mạnh của chúng ta trong sự tìm kiếm tự do của con người không phải là vật chất mà tinh thần. Và vì sức mạnh ấy không có giới hạn, nó ắt hẳn phải làm khiếp đảm rồi cuối cùng chiến thắng những kẻ nào muốn áp đặt ách nô lệ lên đồng loại của họ. Vì trong lời của Isaiah:" Người ban sức mạnh cho ai mệt mỏi, kẻ kiệt lực, Người làm cho nên cường tráng. . . Nhưng những người cậy trông Ðức Chúa thì được thêm sức mạnh; như thể chim bằng, họ tung cánh; Họ chạy hoài mà không mỏi mệt..." (1)

Đúng, hãy thay đổi thế giới của ta. Thomas Paine, một trong những vị Cha Lập Quốc, nói: " Bằng sức mạnh trong lòng của mình chúng ta có khả năng bắt đầu thể giới lại từ đầu." Chúng ta có thể thực hiện được điều này, chung sức làm những gì không một nhà thờ nào có thể tự mình làm được.



Chú thích của người dịch:


(1)Whittaker Chambers (1901-1961) là nhà báo Mỹ và từng là đảng viên Đảng Cộng sản Mỹ. Về sau ông từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Năm 1948 ông ra làm chứng trước quốc hội Mỹ, tại đây ông đã tố cáo Alger Hiss (1904-1996) , nhân viên ngoại giao Mỹ, là gián điệp cho Liên Xô.

(2) Bản dịch Việt Ngữ của Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ


.



Nguồn:Thư viện Ronald Reagan

http://www.reagan.utexas.edu/archives/speeches/1983/30883b.htm

5.9.11

MOHAMMAD AL-ASFAR- MÙI HƯƠNG CỦA CUỘC CÁCH MẠNG

Trần Quốc Việt dịch

Benghazi, Libya


Trên đời này không có gì là không thể. Chúng ta có thể bình tĩnh thảo luận bất kỳ chủ đề gì. Chúng ta chỉ cần thiện ý. Cái chuyện "bạn ủng hộ tôi hay chống lại tôi?" xét ra chẳng lợi ích gì. Tôi không ủng hộ bạn, cũng không chống lại bạn, lại càng không đứng ở giữa.

Nếu tôi chọn thái độ thì tôi không phải là nhà văn. Tôi gần bạn, nhưng bạn không thể thấy tôi. Tôi cũng không thể thấy bạn, dù bạn luôn ở trong lòng tôi. Tôi không quan tâm xem xét đến quan điểm của mọi người. Tôi chỉ quan tâm đến bé gái thật thà đã mất người chú trong vụ thảm sát ở nhà tù Libya.

-Chú con hiện giờ ở đâu, hở bố?

-Chú đang đi xa.

-Chú có trở về ngay không?

-Chú sẽ sớm trở về, con yêu, và mang về cho con một cuộc cách mạng rất đẹp.

-Thế tại sao chú không gọi điện thoại về cho bố và con?

-Điện thoại của chú hết phút rồi, nhưng chú sẽ mua thêm phút rồi sẽ sớm gọi về thăm chúng ta, con yêu của bố.

-Bố cho con số của chú nhé. Con sẽ gọi hỏi thăm chú. Con có thẻ điện thoại mà.

-Vậy con hãy gọi bất kỳ số nào giữa số 1 và 1200, chú sẽ trả lời con.

Cháu thật thà kể tôi nghe nó đã gọi chú, và giọng nói trong điện thoại bảo cháu thứ Sáu chú đến thánh đường cầu nguyện.

"Thế rồi con ngủ và mơ thấy, bố biết không," Cháu kể. "Một người đàn ông thật cao đi quanh ngôi mộ của Omar al-Mukhtar ở Benghazi, rồi ông ta leo lên con ngựa trắng của ông và bay lên trời; bố biết không, ông vẫy tay con và ném cho con một đoá hoa ngát hương. Khi con thức dậy, con không thấy hoa đặt trong lòng mình, nhưng mùi hơi mặn của Benghazi - của Libya- vẫn còn ở đấy; bố hãy cầm tay con và ngủi xem có phải mùi hương không. Con sẽ không bao giờ rửa tay nữa. Con muốn mùi hương ở mãi mãi bên mình."

Tôi bảo con:"Hãy rửa tay bình thường. Mùi hương sẽ không biến mất. Nước chỉ cuốn trôi bụi thôi."



Cuộc cách mạng ở nước tôi đang bừng cháy, và đã đạt được thành công khá lớn ở trong nước và trên trường quốc tế. Mỗi lần một thành phố được giải phóng, các thể chế tạm thời liền xuất hiện để quản lý cuộc sống hàng ngày và bảo vệ tự do, và nhiều thành viên trong tầng lớp lãnh đạo của chế độ cũ, dù họ là các nhân vật chính trị, văn hoá hay thương mại, đều gia nhập cách mạng.

Lá cờ của chúng tôi không còn là cánh đồng xanh ngát; lá cờ chúng tôi hiện giương cao là màu đỏ, màu đen, và màu xanh lá cây với hình lưỡi liềm và ngôi sao ở chính giữa. Những màu sắc này gợi tưởng đến thời đen tối và dưới ách nô lệ thực dân mà chúng tôi đã chịu đựng trong lịch sử của mình.

Trong suốt bao thập niên, trong vòng vây trập trùng của bao mật vụ và chỉ điểm, chúng tôi sống trong vô cùng sợ hãi, bất kỳ lúc nào cũng tưởng mình đi tù hay "mất tích". Không ai có thể can thiệp cho mình; không có toà án thật sự, không có nhân quyền, không có gì hết.

Tất cả mọi thứ trước cuộc cách mạng này đều hoàn toàn phục vụ cho việc làm giàu của bạo chúa và gia đình của y. Tất cả mọi thứ đều vì lợi ích của họ: quân đội, cảnh sát, nước, văn hoá, giáo dục, khách sạn, nhà hàng, lá cờ. Thậm chí cả chuyện giao hợp cũng bị kiểm soát: nhiều người không thể cưới cho đến khi chế độ tổ chức đám cưới tập thể hay cho đến khi họ được "ban tặng" giường ngủ cho đêm tân hôn.

Cách đây mười lăm năm, chỉ trong một đêm, bạo chúa và bọn lính đánh thuê của y đã sát hại 1.200 người tại nhà tù Abu Salim ở Tripoli, nơi giam cầm các tù chính trị. Xác chết nằm xếp lớp lên nhau trong nấm mồ hoang tập thể -những người tù từ khắp miền của Libya, thuộc mọi lứa tuổi, đều bị giết chết mà không có cả đến một phiên toà tượng trưng. Người em duy nhất của tôi là một trong những người tù bị sát hại ấy.

Tôi viết về vụ thảm sát ấy trong tiểu thuyết đầu tay của mình. Và trong tiểu thuyết thứ hai. Và trong tiểu thuyết thứ ba. Và tôi không phải là người duy nhất không thể nào quên. Đêm hè tàn ác ấy là một trong những tia lửa làm cháy bùng lên cuộc cách mạng này. Gia đình của những nạn nhân bị thảm sát đã bắt đầu các cuộc biểu tình hiện nay, ngay đây ở Benghazi, và chẳng mấy chốc những người trẻ của cuộc cách mạng đến gia nhập họ.

Hiện nay, bất chấp bạo lực của chế độ bủa vây quanh khắp chúng tôi, những thành phố được giải phóng đang rộn ràng hân hoan; chúng tôi đã nếm hương vị tự do. Sợ hãi, khiếp đảm, căng thẳng và hồi hộp vốn là tính cách của người Libya ngày trước giờ đây tan biến mất; bao thù oán cũ cũng tan dần theo. Mọi người, không ngại mưa hay đói, đều muốn giúp.

Cuộc cách mạng này đã thay hình đổi dạng những người Libya, đã ban cho chúng tôi niềm tin rằng điều chúng ta gọi là tự do phải giành được mới có, và ta không nên hưởng tự do một mình trên nỗi đau mất mát hạnh phúc, công sức hay sinh mạng của bao người khác.

Tôi hầu như không còn thời gian để viết: nhiều ngày qua tôi hoà mình vào các đám đông. Tôi thà sống trong lòng cuộc cách mạng đang diễn ra hơn là viết về cách mạng - cách mạng còn tươi tắn, mới mẻ quá, chưa bị hoen ố bởi sự thêm thắt và phong tục mù quáng. Đây chính là cuộc mạng thấm đẫm hương vị Libya, là sự pha trộn của tiêu và muối và ánh sáng thơm ngào ngạt tựa như phúc lành từ những lồng đèn của các bậc thánh.

Nhiều năm trước tôi chỉ thỉnh thoảng mới tình cờ gặp lại bạn cũ, ở chợ phiên ngày thứ Sáu hay ở đám tang, lễ cưới và ở các trận đấu thể thao. Còn bây giờ tôi tham gia cùng bạn bè ấu thơ của mình trên các đường phố và ngõ hẻm cách mạng.

Tường đã trở thành bích họa, điểm xuyến với những khẩu hiệu mới ca ngợi vinh quang của cách mạng và những liệt sĩ cách mạng, và tố cáo những tên bạo chúa và các hình thức khủng bố của chúng. Những câu chữ trên tường này tuy sai văn phạm be bét và đầy các lỗi chính tả, nhưng dẫu sao vẫn chân chất và nghệ thuật.

Chúng sinh ra cùng với sự chào đời của tự do và cuộc sống mới, và những tranh chữ trên tường này chúng ta mãi mãi không nên xoá đi. Chúng nên được gìn giữ ở trên tường xưa cho đến ngày ánh nắng mặt trời làm phai nhạt dần, dù tôi không tin rằng mặt trời nỡ lòng nào xoá đi những dấu ấn bất tử như thế.

Tôi không muốn nói về những vụ thảm sát mà chế độ đã gây ra trong mấy tuần qua: thế giới đã lắng nghe và theo dõi những hình ảnh về những tội ác tàn bạo và đau lòng này. Thay vào đó tôi muốn nói về những người chiến thắng, những người đã đánh bại cái chết. Những liệt sĩ của cuộc cách mạng này không chỉ là những nam thanh nữ tú; họ là liệt sĩ thuộc đủ mọi lứa tuổi, thuộc đủ mọi trình độ học vấn, thuộc đủ mọi giai cấp xã hội. Cả Libya đã đồng loạt đứng lên.

Chúng tôi không bắt chước ai, nhưng chúng tôi phải thừa nhận những cuộc cách mạng ở Tunisia và Ai Cập đã cổ vũ chúng tôi. Chúng tôi không thể nào biết đến hạnh phúc chừng nào bạo chúa vẫn còn cai trị; làm sao chúng tôi có thể đến thăm những người Tunisia và người Ai Cập trừ phi chúng tôi có thể ngẩng đầu lên cao như họ, ngẩng đầu lên cao như tất cả những người tự do trên thế giới?

Libya đã kiên nhẫn suốt trong thời gian dài, nhưng lòng kiên nhẫn của chúng tôi không phải là sự hèn nhát. Chúng tôi đã chờ đợi thời điểm thật sự hưng phấn, và do thời điểm ấy đến đúng lúc, chúng tôi đã đạt được mục tiêu của mình, tất cả nhờ vào lòng can đảm và nhờ vào sự phấn khích làm cho cả thế giới kinh ngạc.

Cuộc cách mạng của chúng tôi là cuộc cách mạng của nhân dân, nhân dân không thể còn chịu đựng nổi chế độ độc tài đã bốc mùi hôi thối, nhân dân không thể nào được xoa dịu bằng của bố thí. Áp lực đã lên đến đỉnh điểm. Thế là nhân dân tức nước vỡ bờ và tuyên bố công khai niềm ao ước của họ về một đời sống tốt đẹp hơn.

Từ đấy họ đối mặt với ánh mắt đầy sát khí của bạo chúa, và đối mặt không chỉ với hơi cay mà còn với đạn thật cùng xe tăng, máy bay và đại pháo. Cho nên chúng tôi gọi mình là "cháu của Omar al-Mukhtar", để tỏ lòng tôn kính nhà lãnh đạo kháng chiến đã hy sinh vì tổ quốc vào năm 1931 vì ông dám nói thẳng với các kẻ chiếm đóng người Ý rằng nhân dân Libya nhất định không đầu hàng, và nhất định hoặc chiến thắng hay chết. Theo gương xưa chúng tôi đã kiên trì, chúng tôi đã chịu đựng và chúng tôi đã chiến thắng.

Giờ đây tổ quốc tường chừng như rất đẹp. Phụ nữ ai ai cũng đáng yêu hơn xưa, nụ cười của họ đẹp hơn và tiếng nhạc dậy lên trong lòng họ. Đến những người bệnh cũng được chữa lành; họ bệnh vì ung nhọt độc tài.

Nhân dân toàn thế giới đứng về phía chúng tôi. Và ngay cả trước khi họ ủng hộ chúng tôi, họ cũng đã kính trọng cuộc cách mạng của chúng tôi vì cuộc mạng ấy không bị hoen ố bởi cướp bóc hay phá hoại. Mục tiêu của chúng tôi rõ ràng: đánh sập chế độ Phát xít đã làm cho nước chúng tôi bị cả thế giới xa lánh.

Chúng tôi sẽ biến Libya thành ngọn hải đăng của nền văn minh, khoa học và văn hoá, thành một hệ thống xã hội mà sự thăng tiến chỉ dựa trên giá trị và tài năng nơi mỗi người, không phân biệt ý thức hệ hay gia tộc, đều sẽ xứng đáng với địa vị mình đạt được. Chúng tôi sẽ làm việc một cách hết sức minh bạch, và chúng tôi sẽ làm cho thế giới tin tưởng ở chúng tôi, và giúp đỡ chúng tôi. Mọi người đều tin tưởng vững chắc rằng chúng tôi đã giành được tự do cho Libya, nên bây giờ chúng tôi phải phấn đấu vì sự an toàn của quốc gia. Cách mạng giờ cần tài năng, không cần lòng trung thành.

Nhân dân Libya ngày nay là huynh đệ trong gia đình nhân loại. Chúng tôi có thể tự do nói chuyện với những anh em trong thế giới Ả Rập và ở bất kỳ nơi nào khác, những người anh em mà chúng tôi đã từng ao ước gặp, và giờ đây có thể ôm họ vào lòng mà không sợ hãi. Cuộc đời người dân Libya đã bị tai tiếng suốt bao lâu nay rồi: đối với những ai trong chúng tôi được may mắn đi ra nước ngoài, đi đến đâu chúng tôi cũng đều bị chỉ trỏ tố cáo như tội phạm -nào là vụ mất tích của giáo sĩ phái Shiite Musa al-Sadr người Liban khi ông đến Libya năm 1978; nào là vụ đặt bom Lockerbie năm 1988 và năm sau đến vụ bắn rơi chiếc máy bay hành khách của Pháp trên bầu trời Niger. Nhưng lúc này chúng tôi chứng minh cho thế giới biết rằng nhân dân Libya không có gì đáng chê trách về những hành động này, đáng chê trách chính là chế độ độc tài ghê tởm.



Lâu lắm rồi, tôi hứa với một cháu bé gái người em duy nhất của tôi sẽ trở về. Em ơi, em đã trở về, và em mang về cho cháu một cuộc cách mạng.




Mohammad al-Asfar là nhà văn. Nguyên tác tiếng Ả Rập, bản dịch sang tiếng Anh của Ghenwa Hayek.

Tựa đề của người dịch, tựa đề bản tiếng Anh "Libya's Patient Revolutionaries", New York Times 2/3/2011
www.nytimes.com/2011/03/03/opinion/03asfar.html?pagewanted=all