29.4.10

TRẦN QUỐC VIỆT – BÀI VĂN VÀO ĐẠI HỌC BERKELEY NĂM 1996

Tôi sinh ra đời là đứa bé tàn tật trong một gia đình nghèo đông con ở Việt Nam. Buồn thay, tôi cũng sinh ra đời để vội vã lớn lên trong hoàn cảnh của một trong những cuộc nội chiến tàn nhẫn và đẫm máu nhất trong thế kỷ hai mươi, “thế kỷ đau thương”.

Không lạ gì khi tuổi thơ nhạy cảm và non dại của tôi bị ám ảnh từng cơn bởi nỗi sợ chiến tranh. Tuy nhiên, đấy chỉ là phần rất nhỏ những gì tôi trải qua. Chiến tranh thực sự đã cướp đi ở tôi sự ngây thơ cần thiết và quý giá cũng như sự bình an bình thường trong tâm hồn. Tựa như tấm vải liệm vô hình của số phận, chiến tranh đã phủ kín những năm đầu đời của tôi dưới bầu trời này. Tôi thấy những xác chết đáng thương hình hài không nguyên vẹn, nỗi lo sợ dường như lúc nào cũng phảng phất trên khuôn mặt của ba má, và nghe những tin tức cùng những tin đồn đáng sợ hàng ngày về cuộc chiến truyền lan khắp nơi trong thành phố và đôi lúc được nhắc đến bên bữa cơm tối gia đình. Thỉnh thoảng giữa khuya khi có pháo kích, má tôi thường đánh thức tôi dậy và giục tôi chạy thật nhanh ra khỏi nhà. Chúng tôi thường ngồi núp trong cái hầm trú ẩn đắp bằng những bao cát ở ngoài sân. Rồi sáng hôm sau tôi đi học và lại nghe bạn bè kể những chuyện tương tự. Trong hoàn cảnh như vậy, tôi sớm đủ chín chắn để nhận thức rằng sống được là điều đáng quan tâm nhất còn mọi thứ khác, từ chuyện cổ tích đến những giấc mơ, dần dần đều phai nhạt thành những gì xa xỉ gần như đã không còn nữa.

Mỉa mai thay, kết thúc bất ngờ của chiến tranh chỉ tạo ra những bi kịch liên tiếp. Ba tôi bị tống vào những trại cưỡng bức lao động ở các vùng miền bắc xa xôi. Chị đầu tôi quá tuyệt vọng nên đã trốn khỏi Việt Nam. Người mẹ nhẫn nhại và can đảm của tôi đã vất vả vô cùng để nuôi gia đình còn lại với đàn con mười đứa. Năm ấy tôi chưa đầy mười ba tuổi.

Hoà bình, trong trường hợp tôi, còn tệ hơn chiến tranh. Tôi không thể theo học các trường cao đẳng hay đại học sau khi tôi học xong trung học. Tôi học lên được nhưng tôi không có đủ tư cách chính trị để được học tiếp. Dù sao, chế độ hầu như đã phân loại gia đình tôi là những công dân hạng hai lạc hậu về mặt chính trị, là tầng lớp bị hắt hủi nhất trong bậc thang giai cấp đương thời.

Mười năm sau, ba tôi trở về nhưng ông đã khô héo cả tinh thần lẫn thể chất. Chẳng bao lâu tôi đưọc theo học đại học sau khi tôi thi đậu một kỳ thi đại học khó. Niềm vui đi học tiếp của tôi song lại quá ngắn ngủi. Sau ngay tháng đầu tiên ở trường đại học, tôi cay đắng nhận ra rằng trường chỉ còn là bộ máy tuyên truyền thô bạo của chế độ hà khắc. Ở đấy kiến thức và các chân lý phổ quát sẵn sàng bị bóp méo để cho ra lò những cán bộ trung thành về chính trị nhưng trống vắng phần nào về tâm hồn thay vì tạo ra nhưng con người say mê và có ích. Ví dụ, ngành học của tôi là tiếng Anh, nhưng trên thực tế, tôi phải học một thứ tiếng Anh bị chính trị hoá quá nặng và chỉ những môn học về chủ nghĩa cộng sản. Tôi không bao giờ có cơ hội học những môn cần thiết cho việc giáo dục bình thường như các môn về nhân văn, nghệ thuật, và xã hội.

Tôi đã bảo vệ được tâm hồn của mình trước tất cả những nỗ lực cải tạo ý thức hệ của chế độ. Nhưng, tựa như một ốc đảo hoàn toàn khép kín, tôi ngày càng trở nên nghèo nàn hơn, cô đơn hơn, và rỉ sét hơn về tinh thần trong khi các làn sóng thông tin và tinh thần dân chủ đang chảy qua khắp thế giới bên ngoài. Sau khi ra trường, tôi không thể nào tìm được việc làm do “vết nhơ” chính trị trong quá khứ của ba tôi. Trong thời gian lạc lõng về lòng tin này, tôi viết một vài tiểu phẩm kín đáo chỉ trích những bất bình đẳng trong xã hội và cũng bắt đầu mơ về Abraham Lincoln và về Tượng Nữ Thần Tự Do ở bên kia bờ Thái Bình Dương.

Gia đình tôi di dân đến Hoa Kỳ vào năm 1992. Giống như bao di dân khác đến Mỹ, chúng tôi bắt đầu cuộc đời mới của mình với nhiều hy vọng và lạc quan. Hơn nữa, tôi cố gắng quên đi quá khứ trĩu nặng những đau buồn của mình ở Việt Nam, một quê hương rất nghèo và bất hạnh mà tôi mãi mãi thương yêu. Tuy nhiên, tôi hiểu tôi nên sống cho hiện tại và tương lai ở Mỹ, quê hương thứ hai của tôi. Rõ ràng quên đi một phần đời mình hoàn toàn không dễ dàng. Giống như những giọt nước mắt bỗng dưng chợt đến, quá khứ thỉnh thoảng lẻn vào tôi trong giấc ngủ.

Hiện nay, tôi đang cần cù học những môn yêu cầu cho chuyên ngành thương mại, và đồng thời tôi say sưa lấp đầy những lỗ hổng lớn trong kiến thúc của mình. Không có gì ngạc nhiên khi những trải nghiệm cay đắng trong quá khứ giúp tôi tìm thấy con đường đi đúng trong hiện tại. Tôi trở thành người dạy kèm tự nguyện môn toán và tiếng Anh cho những học sinh mà tiếng Anh không phải là tiếng mẹ đẻ, chẳng hạn như học sinh người Việt, người Mễ, người Đại Hàn vân vân. Kỳ diệu là qua lắng nghe những câu chuyện họ kể tôi cũng nhận thức ra đôi điều. Điều đầu tiên là ngôi làng toàn cầu của chúng ta không hẳn là hạnh phúc như có nhiều người trong chúng ta tưởng. Điều thứ hai là câu chuyện về cuộc đời quá khứ của tôi không hẳn là câu chuyện rất không bình thường chừng nào vẫn còn nghèo đói, chiến tranh và thất học.

Đối với tôi, giấc mơ Mỹ là một nền học vấn tốt. Khi mơ ước ấy thành sự thật, nó sẽ giúp tôi làm được gì đó tích cực hơn trong cuộc đời còn lại của mình. Trường đại học của các bạn là nơi kế tiếp tôi muốn tiếp tục nuôi tiếp giấc mơ suốt đời ấy.

Nguyên bản tiếng Anh

Personal Statement by Viet Quoc Tran


I was born a disabled boy in a poor and crowded family in Vietnam. More sadly, I was also born to hastily grow up in the circumstances of one of the most bloody and merciless civil wars in the twentieth century, a “century of sorrow.”

Not surprisingly, my sensitive and tender childhood was fitfully obsessed by fears of the war. However, this was just the tip of the iceberg. Indeed, the war robbed me of precious, necessary innocence and of an ordinary peace of mind as well. Like an invisible shroud of fate, the war certainly wrapped up my first years under the sun. I saw the pitifully maimed corpses, the almost constant anxiety reflected on my parents’ faces, and heard the frightening war-related news and rumors circulated daily around my hometown and sometimes at the dinner table of the family. Sometimes at night when there would be an air raid my mother would wake me up and urge me to quickly run out of the house . We would hide in our sandbag-built shelter in the yard. Then, the following morning I went to school and heard similar stories from my classmates. From such situations I was soon mature enough to realize that to live was the most important concern and that everything else, from fairytales to dreams, gradually faded into nearly lost luxuries.

Ironically, the sudden end of the war brought about only successive tragedies. My father was thrown into the forced-labor camps in remote northern regions. My eldest sister was so hopeless that she managed to escape from Vietnam. My persistent, courageous mother extraordinarily struggled to support our remaining family with ten children. By that time I was not yet thirteen years old.

Peace was, in my case, worse than the war. I could not study at any college or university after I graduated from high school. I was academically eligible but not politically qualified to study more. After all, the Communist regime had already classified my family as politically backward second class, the untouchables of a modern caste system.

Ten year later, my father was free but already physically and mentally withered. Soon I was accepted to study at a university after I had passed a difficult entrance examination. My joy was, however, short-lived. After the first month at the university, I bitterly came to realize that it has been reduced almost to a rudely propagandizing apparatus of the repressive regime. There knowledge and general truths were readily distorted and manipulated to turn out the politically loyal yet partly soulless cadres rather than the useful and motivated persons. For instance, my major was English but, in practice, I had to learn a heavily politicalized English language and only Communism-related courses. I never had any chance to study courses necessary to general education, such as the arts, humanities and social sciences.

I managed to protect my mind and heart from all the ideological efforts of the regime. Somehow, like a totally closed oasis, I became mentally poorer, lonelier and rustier while waves of information and of democratic spirit continued to wash over the outside world. After my graduation I could not land any job due to the political “stain” on the past of my father. During this period of confidence disorientation, I wrote a couple of coded stories criticizing social inequalities and also began to dream of Abraham Lincoln and of the Statue of Liberty beyond the Pacific Ocean.

My family immigrated into the United States in 1992. Like the other immigrants to America, we have started our new lives with a lot of hope and optimism. Moreover, I have tried to forget my sorrow-laden past life in Vietnam, a very poor and unlucky land which I will always love so much. Nevertheless, I understand that I should live for the present and the future in America, my second country. Obviously, to forget a part of my life is far from easy. Like rediscovered tears, the past sometimes sneaks on me in sleep.

At present, I have been diligently studying required courses of business, my major, and, at the same time, interestedly filling big holes in my knowledge. No wonder, the bitter experiences in the past have helped me find the right path to follow in the present. I have become a voluntary tutor in Math and English, especially for those students whose first language is not English, such as the Vietnamese, Mexican, Koreans and so on. Wonderfully, they also help me realize many things through my listening to their stories . The first thing is that our global village is not really as happy as some of us have thought. Secondly, my story of past life is not an extreme one as long as there are still poverty, war and ignorance.

For me, the American Dream is a good education. Once the dream comes true, it will enable me to achieve something more positive in the remaining productive years of my life. Your university is the next place where I want to continue growing toward that lifelong dream.

Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt

Bản tiếng Việt © 2010 talawas

27.4.10

PETER R. KANN -CHIẾN TRANH, TƯỞNG NIỆM, HỒI SINH

Điểm sách

Trần Quốc Việt dịch

Việt Nam: Từ này gợi tưởng đến một quốc gia và gợi lên một tâm trạng. Đối với hơn 90triệu người Việt Nam, đa số dưới 26 tuổi, Việt Nam là quốc gia nơi chế độ cai trị thối nát của Đảng Cộng Sản và chủ nghĩa tư bản hỗn loạn đang tạo ra, ít nhất tạm thời, sự phát triễn kinh tế mạnh mẽ. Đối với đa số người Mỹ, Việt Nam vẫn chẳng gì hơn là ký ức chua chát về một thất bại mà giới cánh tả phản chiến và làn sóng bi quan hậu chiến đã khắc sâu trong ký ức tập thể của chúng ta. Giờ đây hai cuốn sách bàn đến hai câu chuyện tương phản về Việt Nam. Cuốn đầu tiên là sách vỡ lòng nghiêm túc về thực trạng Việt Nam ngày nay; cuốn kia là sách chỉ nam tha thiết, dẫu không đúng lập trường, về những điều đáng lẽ nên diễn ra.
Trong sách " Việt Nam: Con Rồng Trỗi Dậy", tác giả Bill Hayton, phóng viên BBC thường trú vài năm tại Hà Nội, đã cố gắng giải thích tỉ mỉ, tưởng chừng như đang tường thuật, những điều phức tạp và nghịch lý đang diễn ra ở Việt Nam ngày nay. Tác giả đã phác thảo ra tài tình chủ nghĩa duy vật bát nháo trong xã hội Việt Nam: giai cấp doanh nghiệp đang lên cấu kết với chế độ cai trị; sự tăng trưởng kinh tế mau lẹ đạt được nhờ cho phép các quy luật thị trường dù tồi tệ vẫn được hoạt động; và những mưu chước của tầng lớp quan chức già nua của Đảng Cộng Sản mà mối quan tâm hàng đầu của họ là sự sống còn của bản thân. Bên dưới sự thay đổi của Việt Nam "tiềm ẩn chế độ chính trị hoang tưởng và rất chuyên chế", ông Hayton nhận xét, mặc dù trong toàn bộ cuốn sách còn lại ông dường như không thể nào xác quyết được phải chăng giới cai trị của đảng ngày nay là một lũ quan tham già nua hay là những nhà cách mạng lão thành thực tâm tìm cách giải quyết các vấn đề xã hội qua việc duy trì "sự tôn trọng quyền lực dựa trên nho giáo".
Về vấn đề này, và về những vấn đề khác, sau khi gấp sách lại ta ước gì ông Hayton tường thuật với ít chi tiết hơn và dám liều đưa ra những kết luận rõ ràng hơn một chút. Có một câu nói thường truyền tụng trong giới nhà báo ngoại quốc là nếu ta không biết bài tường thuật của ta đưa đẩy ta đi đến đâu, thì ta cứ hạ bút viết "chỉ có thời gian mới trả lời" để kết thúc bài. Quả thực đấy cũng chính là kết luận của tác giả. Ông nói với chúng ta, "Chuyện gì xảy ra tiếp theo chăng nữa sẽ không thể nào tẻ nhạt". Hay: "Nào ai biết được chuyện gì có thể diễn ra trong tương lai"? Hay: "Phải chăng số phận của Việt Nam là sẽ lại trở thành một nuớc Đông Nam Á khác do một thiểu số cầm quyền (oligarchy)"? (Câu trả lời, theo tôi, nước Việt Nam được như thế là may mắn lắm).
Nhưng ông Hayton đã không do dự khi bày tỏ quan điểm rõ ràng của mình về một vài chủ đề khác. Hiển nhiên là người rất quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, tác giả ghê tởm khi thấy cảnh quan của Việt Nam (như vịnh Hạ Long) bị tàn phá, rừng và ngư trường ven bờ bị tận diệt, sông ngòi ô nhiễm, thú rừng đúng nghĩa là bị nuốt sạch. Thêm vào đấy tác giả, trong suốt tất cả những năm về sau này, vẫn nhất mực còn căm ghét Mỹ và cảnh "thảm sát hàng loạt " và " hoàn toàn ghê tởm " trước cuộc chiến Mỹ đã tiến hành. Tác giả thất vọng khi thấy nước Việt Nam và người Việt Nam đã tìm cách cải thiện mối quan hệ với nước Mỹ và người Mỹ.
Có lẽ hay hơn nếu một người tỉ mỉ như tác giả nên dàn trải xúc cảm, dù không đúng ấy, cho vấn đề nào đấy khác với môi trường. Ta ước sao nhiệt tình phàn chiến của tác giả ít ra cũng nên mở rộng ra để bao gồm sự cảm thông ít nhiều cho hàng trăm ngàn cựu chiến binh quân đội miền nam, những người đã bảo vệ Miền Nam Việt Nam trước sự xâm chiếm của cộng sản, để rồi sau đó khi cuộc chiến tàn, họ bị lùa đến các trại cải tạo kinh hoàng và hiện vẫn gần như là vong thân ngay trên quê hương mình như là những kẻ bên lề chính thức dưới chế độ cai trị cộng sản. Tình cảnh của họ ít được đoái hoài đến trong sách của ông bằng số phận của gấu nâu hay những thú rừng khác.
Để sang trang mới, hay chính xác hơn, chúng ta hãy cùng lật qua cuốn sách của Peter Jennings " Sách Chỉ Nam Không Đúng Lập Trường Về Chiến Tranh Việt Nam". Ở đây độc giả sẽ không bẳt gặp những lời phản chiến trống rỗng mập mờ nước đôi. Ông Jennings là cựu phi công Thuỷ Quân Lục Chiến tham chiến ở Việt Nam mà sau này tôi có dịp gặp ở Lào, nơi ông bay những phi vụ khá nguy hiểm cho chiến dịch trên không của CIA mang tên Air America. (Nhiều năm sau, ông Jennings và tôi cùng viết chung bài phê bình về một cuốn phim ngốc nghếc, thiếu trung thực cùng tên).
"Trong lịch sử Mỹ không có cuộc chiến tranh nào hiện nay lại đang rất cần được bàn luận đến qua cách nhìn mới không đúng về lập trường (politically incorrect) -hay nói một cách khác qua cách nhìn mới trung thực - như là cuộc chiến tranh Việt Nam", tác giả mở đầu, "vì những người ngày xưa đã bóp méo cuộc chiến tranh, đã không ngừng nhồi nhét những dối trá độc ác về cuộc chiến vào ý thức quốc gia của chúng ta giờ đây lại ca tụng quá đáng "những bài học" tưởng tượng ra từ cuộc chiến lại chính là những kẻ ban đầu đã tạo ra cái gọi là "đúng lập trường"".
Ông Jennings nhắc lại lịch sử đầy thuyết phục về sự dính líu của chúng ta ở Việt Nam, từ nỗ lực cung cấp viện trợ cho người Pháp của Dwight Eisenhower đến vụ đảo chánh sai lầm lật đổ nhà lãnh đạo Miền Nam Việt Nam Ngô Đình Diệm của John Kennedy; từ sai lầm quân sự chiến lược của Lyndon Johnson, với khái niệm chiến tranh tiêu hao lực lượng địch được tính toán cẩn thận ( ông Jennings gọi đây là sự "xoa dịu quá mức ") đến cuộc tấn công của cộng sản trong dịp Tết vào đầu năm 1968, mà vốn là một "thảm hoạ" quân sự đối với những người cộng sản nhưng giới truyền thông mô tả đây là một thất bại chính quan trọng về phía Mỹ. Trong trận đánh dịp Tết này tôi là phóng viên ở Việt Nam và giống như bao người khác tôi thoạt đầu không hiểu ý nghĩa của sự kiện này. Tuy nhiên sau đó khoảng độ một năm tôi thường lái xe trên những con đường hầu như an toàn và rất an ninh và ngủ lại những ngôi làng mới được bình định. Quả thực lúc đó chúng ta đang thắng cuộc chiến này.
Ngoài những người lính Mỹ và những người lính Việt Miền Nam Việt Nam tham chiến, tác giả còn có thêm một vị anh hùng khác, đó là Richard Nixon. Khác với LBJ, Nixon không sợ xử dụng đến không lực để đánh đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào, đánh các mật khu Bắc Việt ở Cambodia, và cuối cùng là " những đợt nem bom liên tục vào mùa Giáng Sinh" năm 1972 xuống Hà Nội và Hải Phòng trong nỗ lực nhằm buộc những người Việt Miền Bắc đến bàn hội nghị hoà bình. Là phi công, tác giả có thể có niềm tin quá đáng vào ưu thế của không lực, nhưng không có hoài nghi rằng chính do bị đánh nặng nề nên người Việt Miền Bắc ký kết thúc Hiệp Định Hoà Bình Paris vào năm 1973 (chỉ để ngay lập tức vi phạm các điều khoản của hiệp định). Phần còn lại của cuộc chiến là đoạn cuối đáng buồn và những chuyện không hay: vụ tai tiếng Watergate, quyền lực tổng thống bị suy yếu, quốc hội đầy thách thức do Đảng Dân Chủ nắm đa số, cắt đứt sự ủng hộ quân sự như đã hứa với đồng minh Miền Nam Việt Nam của chúng ta, Miền Bắc xâm lăng ồ ạt Miền Nam, rồi sụp đổ.
Ông Jennings phẫn nộ chính đáng nhất khi ông phá tan những nguỵ biện về cuộc chiến. Chính quyền Miền Nam Việt Nam thối nát nên không đáng cho chúng ta ủng hộ. (Thế so với, ông hỏi, chế độ toàn trị ở Miền Bắc Việt Nam thì sao?). Chiến tranh Việt Nam là cuộc nội chiến mà cần phải do chính nhân dân Việt Nam quyết định. (Nhưng cuộc nội chiến lại được quyết định bởi cuộc xâm lăng của Miền Bắc Việt Nam). Nhân dân Mỹ không ủng hộ chiến tranh. (Tuy nhiên, ngoài những kẻ phá rối phản chiến, đa số người Mỹ đều ủng hộ mục đích của Nixon là muốn đạt được nền hoà bình trong danh dự). Cuộc chiến ở Việt Nam là vô đạo đức.(Làm sao gọi là vô đạo đức khi bảo vệ một dân tộc khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa cộng sản?). Đây là cuộc chiến tranh ta không thể nào thắng được. (Hoa Kỳ cho đến năm 1973 đã thắng lớn trong cuộc chiến này và chỉ cần thực hiện cam kết là cung cấp sự ủng hộ không lực cùng với viện trợ hạn chế khác cho đồng minh của mình). Như tác giả kết luận: "Lập luận cho rằng Việt Nam là một cuộc chiến tranh không thể nào thắng được là không đúng, nhưng những người của đảng Dân Chủ trong Quốc Hội Hoa Kỳ đã quyết định làm cho nó thua."
Điều ông Jennings đề cập đến, nhưng ông lẽ ra cũng nên nhấn mạnh hơn nữa, là giờ nhìn lại chúng ta có thể xem Việt Nam chỉ là một trận đánh trong một cuộc chiến tranh lớn hơn vì tương lai của Đông và Đông Nam Á. Dù trận đánh đó thua, nhưng chúng ta thắng được cuộc chiến tranh rộng lớn hơn. Chúng ta chỉ cần nhìn vòng cung của các quốc gia hoà bình, thịnh vượng, tư bản, và nói chung là dân chủ trải dài từ Nhật Bản và Nam Hàn ở phía bắc xuống đến Indonesia ở phía nam. Những giá trị mà chúng ta đã cổ vũ, và cũng chính vì những giá trị này mà ông Jennings và những đồng bào của ông đã chiến đấu, đã lừng lững hiện ra trong chiến thắng.
Việt Nam lẽ ra cũng nên nằm trên vòng cung của các xã hội tự do ấy.


Peter R. Kann, là phóng viên từng đoạt giải Pulitzer, cho đến năm 2007 là chủ tịch của công ty Dow Jones & Co., công ty xuất bản tờ Wall Street Journal.



Nguồn: Wall Street Journal ngày 9 tháng Tư năm 2010

Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt

Bản tiếng Việt © 2010 talawas