30.3.16

Woeser- Quê hương giữa đôi bờ nước mắt




Trần  Quốc Việt dịch


Lời người dịch: Tsering Woeser là nhà văn và là nhà hoạt động người Tây Tạng. Câu chuyện có thực dưới đây là một chương trong tác phẩm tựa đề Tây Tạng Bút ký của bà được xuất bản vào năm 2003 ở Trung Quốc. Tác phẩm này sau đó đã bị cấm và bà bị mất việc, mất nhà, bị “cải tạo” và bị cấm xuất cảnh. Bà hiện sống ở Bắc Kinh.

Hôm ấy vào một ngày hè nóng nực năm 1999. Như thường lệ, chùa Tsuglakhang rất đông khách thập phương và người hành hương đến viếng. Và như thường lệ, Nyima Tsering đứng ở lối vào để bán vé và sẵn sàng làm hướng dẫn viên du lịch thuyết minh bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc cho khách từ xa đến vãng cảnh chùa. Không giống với những lạt ma khác, trên báo chí và đài truyền hình họ gọi ông là “lạt ma hướng dẫn viên du lịch.” Tuy nhiên ông không chỉ là hướng dẫn viên du lịch, mà còn là người giữ nhiều chức vụ, đặc biệt nhất là Ủy viên Thường trực Hội đồng Nhân dân ở Lhasa. Cho nên, chúng ta thường thấy trên các bản tin của đài truyền hình Tây Tạng và đài truyền hình Lhasa một nhà sư trẻ mặc áo dài choàng màu đỏ nâu sậm ngồi giữa các viên chức trông nghiêm nghị mặc áo quần của người thế tục. Ông lúc nào trông cũng điềm đạm, chín chắn, và tự tin.

Vào ngày ấy, ai đấy bảo Nyima Tsering nộp hai tấm hình cho bộ liên quan để làm hộ chiếu. Họ cho ông biết vài ngày sau ông sẽ bay đến Bắc Kinh để gia nhập với các viên chức khác thuộc nhiều bộ của chính phủ. Tất cả họ đều sẽ tham dự hội nghị nhân quyền quốc tế ở Na Uy. Na Uy? Chẳng phải là quốc gia nơi đức Đạt lai Lạt ma nhận giải thưởng Nobel Hòa bình vào năm 1989 sao? Nyima Tsering cảm thấy sung sướng tuy hơi lo lắng. Khi ông đi nộp hình, một người ở đấy thấy vẻ mặt lạ lùng của ông liền nói, “Ông đừng lo lắng, những người đi cùng với ông đều là cấp cao cả đấy. Họ chẳng giống như các viên chức Lhasa chẳng biết gì.”

Chẳng bao lâu Nyima Tsering đáp máy bay một mình đến Bắc Kinh. Tất nhiên ở cuối mỗi chuyến bay đều có người lo cho ông. Ông không thể nhớ rõ ràng ông đã gặp ai hay đã nói gì. Hai ngày sau ông lại đáp máy bay, lần này với mười đến hai mươi đại biểu đến Na Uy, tuy nhiên, ông hầu như chẳng nhớ bất kỳ điều gì trên đường đi. Lẽ ra ông nên nhớ rất rõ ràng những trải nghiệm của mình. Tuy nhiên, so với những từ “nhân quyền”, những vấn đề khác đối với ông chẳng quan trọng bằng. Ngoài hội nghị ra còn có điều gì khác có thể khiến ông rất quan tâm đến? Dù sao, ông là người Tây Tạng duy nhất đến từ Tây Tạng và là lạt ma duy nhất trong chiếc áo tu sĩ.

Nhưng những người đi trong đoàn này quả thực khác hẳn. Họ lớn tuổi hơn ông, và khác với các viên chức Lhasa, họ có vẻ học cao hiểu rộng, cư xử lịch sự, và không ồn ào hay ra vẻ kẻ cả. Đến ngày hôm nay, Nyima Tsering vẫn còn nhớ lúc ông cảm thấy ngượng ngùng khi ông không thể cầm được nước mắt, và viên chức từ Ban Dân tộc Thiểu số và Tôn giáo được phái đi theo ông hỏi thầm, “Chắc ông không được khỏe?” Rồi im lặng. Khi Nyima Tsering cuối cùng bật khóc, không ai yêu cầu ông phải giải thích; ông rất biết ơn sự im lặng gần như thông cảm ấy.

Những ngày nay khi nhắc đến cuộc hội nghị, Nyima Tsering thường tránh nói về những chi tiết như diễn biến, người tham dự, nội dung, hoàn cảnh, địa điểm, không khí hay gặp gỡ, thảo luận, tham quan, vân vân của sự kiện. Thật sự hai chuyện ông kể lại tưởng như xảy đến thình lình. Và hoàn toàn bất ngờ - như thể chúng bị kìm nén trong lòng ông quá lâu đến nỗi ông giờ không thể nào đè nén được nữa. Ông đột ngột cắt ngang cuộc trò chuyện, để từ miệng ông bật ra lời kể về những chuyện này.

Chuyện đầu tiên xảy ra khi phiên họp vào buổi sáng ngày đầu tiên kết thúc. Ông và những đại biểu khác đang trên đường đến dự bữa tiệc trưa ở tòa đại sứ - tất nhiên tòa đại sứ Trung Quốc. Bao mối lo lắng suốt thời gian qua đã tan biến dần vì chẳng ai làm phiền ông hay hỏi ông những câu hỏi khó trả lời. Ông thích thú ngắm nhìn cảnh phố xá Bắc Âu thanh lịch khi xe họ chạy chậm qua các đường phố, và ông bắt đầu trò chuyện với những người nước ngoài ngồi kế bên. Dần dần, ông dường như đã trở lại con người tự tin ngày trước khi ông thường đưa những người nước ngoài đi tham quan chùa Tsuglakhang. Vì vậy, khi xe bất ngờ dừng lại và cửa xe mở ra, tiếng người - ôi chao, tiếng người ấy, tiếng của rất nhiều người ấy - tưởng như sấm sét nổ vang trên đầu ông. Ông cảm thấy như ông đã bị trúng thương và đang chịu dư chấn của một vụ nổ lớn. Ông gần như bất tỉnh và hầu như không bước đi nổi.

Tàu khựa... Lạt ma Tàu khựa... Lạt ma cộng sản.

Bên ngoài tòa đại sứ, hàng chục khuôn mặt tức giận có nét mặt không thể nào thân thuộc hơn đối với Nyima Tsering; hàng chục cái miệng đang thét lên bằng tiếng nói không kém phần thân thuộc hơn. Những người nam nữ này cũng trạc tuổi ông và cũng cùng chung dòng máu. Khác biệt duy nhất là họ là những người Tây Tạng lưu vong; còn ông và chỉ một mình ông là “người Tây Tạng được giải phóng” từ Tây Tạng đến. Họ mang những biểu ngữ họ đã viết trên đấy NGƯỜI TRUNG QUỐC, HÃY TRẢ QUÊ HƯƠNG LẠI CHO CHÚNG TÔI bằng tiếng Anh, tiếng Tây Tạng, và tiếng Trung Quốc. Vào lúc ấy, trong thành phố nơi Đạt lai Lạt ma đã nhận giải thưởng Nobel Hòa bình, đồng bào của Nyima Tsering hoàn toàn bị ngăn cách với ông.

Mọi người khác đều ra khỏi xe và bước đi thẳng mà chẳng để ý đến cảnh tượng trước mắt ấy. Nhưng ông không thể như thế được. Làm sao ông có thể làm như thế được? Sau này, cho dù cố gắng cách mấy chăng nữa, ông cũng không thể nào nhớ lại làm sao ông đã vượt qua được khoảng cách ngắn từ chiếc xe đến tòa nhà. Lúc đó khoảng cách ấy tưởng như là con đường dài nhất và gian khổ nhất ông đã đi qua trong suốt ba mươi hai năm cuộc đời. Chiếc áo tu sĩ Tây Tạng giống như ngọn lửa cháy rực, và những cái nhìn ghê tởm của những người biểu tình tựa như những giọt dầu nóng hay bơ sôi văng tung tóe. Những giọt này bắn lên đầu cúi gục xuống, lưng còng, và đôi chân lê bước nặng nề của ông và càng làm cho ngọn lửa cháy mạnh hơn.

Nhớ lại trải nghiệm này, Nyima Tsering nói giọng chát chúa hơn bình thường, “Tôi biết làm gì, tôi biết làm gì? Tôi đang mặc cái này...” Kéo mạnh chiếc áo dài choàng màu đỏ đậm, ông khẽ lặp lại lời ấy như thể tự nói với mình.

“Từ đó trở đi,” ông nói, “Tôi không bao giờ còn có thể cảm thấy vui vẻ và vô tư lự ở hội nghị. Suốt trong bốn ngày tôi bắt đầu thấm hiểu nghĩa của câu nói con kiến trong cái chảo nóng.”

Đến lúc cuối cùng ông đi qua được con đường ngắn nhưng đầy gian nan ấy, lòng ông đã bị tổn thương nặng nề. Ông cảm thấy như thể ông đã bị sắt nung đóng dấu vào người. Ông muốn khóc, nhưng không có nước mắt để khóc. Những người ở tòa đại sứ giả vờ như chẳng có gì xảy ra, hay ta có thể nói, họ thường nhìn mà không thấy. Không ai nhắc đến sự cố bất ngờ này. Họ đều nói về những chuyện khác. Trong lúc mọi người khác ăn uống và trò chuyện lịch sự, Nyima Tsering chẳng nuốt nổi được miếng nào, cảm giác như bị mắc xương trong cổ. Đây là lần đầu tiên ông thấy rất nhiều người Tây Tạng ở nước ngoài - hay nói chính xác, rất nhiều người Tây Tạng lưu vong. Mặc dù họ chỉ cách có mấy bước, nhưng bao dãy núi đã ngăn cách họ với ông.

Nhiều người chắc hẳn đã nói với ông về nhiều chuyện. Nhưng chẳng chuyện nào quan trọng hay quan hệ gì. Ông lắng nghe nhưng không thật sự chú ý, lắng nghe, quên. Vì lòng ông đã bị tổn thương, ông đã mất tinh thần. Song ông vẫn nhớ - ngoài những cái liếc mắt thông cảm từ những người nước ngoài đã đi cùng xe với ông - viên chức từ Bắc Kinh được phái theo ông hỏi thầm, “Chắc ông không được khỏe?” Nyima Tsering gần như gật đầu. Ông ta trông hiền lành và lịch sự; và dù sao, với tư cách là người phát ngôn cho vụ Dân tộc thiểu số và Tôn giáo của Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, dù muốn hay không, ông cũng là tâm điểm của sự chú ý của mọi người.

Bao mối lo lắng đã theo Nyima Tsering suốt mấy ngày qua vừa mới tan biến đi thì chúng lại xuất hiện. Những mối âu lo mà càng trĩu nặng thêm trong lòng kể từ khi ông rời Lhasa thật khó mà vơi đi, thế mà bây giờ lại thêm bao nỗi lo lắng mới. “Nếu mình bước ra ngoài cửa và gặp lại họ thì sao? Chắc họ sẽ khinh bỉ mình, chế giễu mình, hay cảm thấy thương hại mình? Chắc không, bây giờ trong đầu họ mình là lạt ma Tàu khựa, lạt ma cộng sản.” Ông mĩm cười cay đắng.

Dù trong lòng vẫn còn hơi lo lắng, ông đánh bạo bước ra ngoài tòa đại sứ. Ông thở dài nhẹ nhỏm, rồi bất ngờ cảm thấy lạc lõng. Những người Tây Tạng hô hào hồi nãy đã biến mất, và chỗ ấy giờ trống vắng. Họ đã đi về đâu?

Ngày thứ hai trôi qua êm ả.

Vào ngày thứ ba, Nyima Tsering phát biểu, đây chính là lý do thật sự mà chính quyền đưa ông đi dự hội nghị. Vì trong các cuộc hội nghị trước không có tiếng nói của người Tây Tạng nên những tuyên bố của Trung Quốc về tình trạng nhân quyền ở Tây Tạng luôn luôn yếu ớt và không thuyết phục. Họ hy vọng sự hiện diện và chứng thực của Nyima Tsering sẽ chứng minh điều khẳng định người Tây Tạng có quyền và những quyền này được bảo vệ. Tuy nhiên ai biết chăng lòng Nyima Tsering ngổn ngang bao mối lo khó xử? Nói như thế nào? Nói gì đây? Nên nói gì... và không nên nói gì? Ông thật khổ tâm. Mặc dù ông biết, dưới chiếc áo dài choàng đỏ đậm này, ông chẳng hơn gì con rối, nhưng ông không muốn có vẻ quá lạc điệu hay đi quá sự đúng mực. Một cách kín đáo, ông hỏi ý kiến của một người nước ngoài mà ông đã bắt đầu tin tưởng. Người nước ngoài khuyên thầm ông nên nói chung chung và tránh đề cập đến bất kỳ điều gì cụ thể.

Nyima Tsering vì vậy đọc thuộc lòng bài phát biểu ông đã chuẩn bị theo “văn bản” hay chính xác hơn, theo “văn bản” gởi cho báo, đài và truyền hình. Bài phát biểu hoàn toàn phù hợp với những ý tưởng thường xuất hiện trên truyền thông trong nước: văn hóa của dân tộc Tây Tạng hoàn toàn được bảo vệ và phát huy, người Tây Tạng có tự do tôn giáo, và quần chúng tu hành đều yêu nước. Mọi người trong hội nghị im lặng lắng nghe ông. Chỉ một người từ thính giả, một người Mỹ, hỏi bằng tiếng Anh, “Nếu vậy, ông có tự do gặp gỡ Đạt lai Lạt ma?” Mặc dù ông đã chuẩn bị trước cho những câu hỏi thuộc loại này, nhưng khi nghe tên của người lãnh đạo - như vào ngày đầu tiên, khi ai đấy chỉ cho ông thấy nơi Đạt lai Lạt ma nhận giải thưởng Nobel Hòa bình - ông ngẩn người ra. Nhưng ông lấy lại bình tĩnh ngay và trả lời một cách khôn khéo, “Đây là câu hỏi chính trị, tôi từ chối trả lời.” “Câu hỏi chính trị gì ở đây chứ? Câu hỏi về một người Tây Tạng, một lạt ma, muốn gặp Đạt lai Lạt ma của mình sao lại có thể là câu hỏi chính trị?” Tất cả những người khác đều không hỏi bất kỳ câu hỏi nào như thể mọi người ở hội nghị thấu hiểu được hoàn cảnh và nỗi lòng của Nyima Tsering. Ông nghĩ như thế.

Ngày thứ tư cuối cùng đến. Ông tưởng những ngày đau khổ sắp qua đi. Nhưng, bất ngờ thay, cú đánh lớn nhất giáng xuống vào ngày cuối cùng.

Sau khi kết thúc hội nghị, họ tổ chức cho đoàn đại biểu đi xem một công viên quốc gia nổi tiếng. Các công viên ở Na Uy đều rất đẹp và đầy bao nét quyến rũ về sự cùng tồn tại hài hòa với thiên nhiên. Cảnh đẹp khiến vị lạt ma trẻ, người lớn lên trên mái nhà thế giới, thấy lòng vơi bao sầu muộn. Khi ông nhìn quanh, một phụ nữ trẻ đến gần ông. Cho dù chị mặc áo thun và quần jeans - trông chẳng khác gì áo quần của những người nước ngoài quanh ông - Niyama Tsering nhận ra ngay tức thì chị là người Tây Tạng. Chị có khuôn mặt Tây Tạng, vẻ Tây Tạng, đặc trưng Tây Tạng.

Người phụ nữ bước đến Nyima Tsering và hai tay dang ra tưởng như chị tình cờ gặp lại người bạn bặt tin từ lâu. Đột nhiên, ông như chìm đắm vào giấc mộng, nghĩ đã gặp chị trước đây. Ông không thể nào cưỡng lại việc nắm tay chị lúc chị nắm chặt tay ông. Bất ngờ thay, người phụ nữ không chịu buông tay ông ra và bắt đầu khóc to lên. Chị vừa khóc ràn rụa vừa nói với ông bằng tiếng Tây Tạng, “Thầy ơi, thầy làm gì ở đây vậy? Thầy làm gì với bọn Tàu này? Thầy là người Tây Tạng, hãy nhớ thầy là người Tây Tạng, đừng giao du với họ...”

Nyima Tsering xiết bao bối rối và buồn bã, nhưng ông chẳng thể rút tay lại cũng chẳng thể nói nên lời. Đám đông bắt đầu xúm lại. Tất cả những người nước ngoài, họ đều rất tò mò trước cảnh một nhà sư mặc áo dài choàng đỏ đang bị người phụ nữ khóc lóc giữ chặt. Không một ai trong đoàn can thiệp, ngược lại họ còn bỏ đi thật nhanh và làm ra vẻ cảnh tượng ấy chẳng liên quan gì đến họ, mà có thể được hiểu là cử chỉ cảm thông và thấu hiểu. Đến lúc này, viên chức do tòa đại sứ phái đi theo Nyima Tsering suốt trong bốn ngày qua mới mở miệng. “Nyima Tsering, chúng ta đi thôi. Kệ bà ta.”

Người phụ nữ Tây Tạng không hiểu tiếng Trung Quốc, nhưng chị cũng có thể đoán được ông ta nói gì. Chị nổi giận và ra sức la lại ông ta bằng tiếng Anh. Nyima Tsering liền cản chị và nói lặp đi lặp lại, “Tôi biết, tôi biết, tôi biết...” Người phụ nữ vẫn khóc tiếp và nói, “Nếu thật sự thầy biết, thì thầy đừng trở lại nữa.” Khó nhọc lắm, Nyima Tsering mới nói buột ra điều ông nghĩ trong lòng: “Làm sao tôi có thể không trở về chứ? Quê hương chúng ta ở đấy. Nếu chúng ta ai cũng bỏ đi hết thì còn ai ở lại Tây Tạng?” Khi ông nói những lời này, ông không thể nào cầm được nước mắt. Mắt ông đẫm lệ.

Rốt cuộc nhiều người đến giúp ông thoát ra tình trạng khó xử này. Họ là những người Tây Tạng được các đơn vị công tác của họ ở Lhasa - như Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội TAR, Đại học Tây Tạng, và thư viện - cử đi học những khóa học cao cấp ngắn hạn ở Na Uy. Nyima Tsering chẳng quen họ, nhưng ông biết họ giống như ông: Những người Tây Tạng ở Tây Tạng. Đến ngày hôm nay ông cũng chẳng hiểu tại sao rất nhiều người Tây Tạng thuộc nhiều thành phần khác nhau lại tập trung ở công viên ấy. Tất nhiên, lúc ấy ông không nghĩ về điều ấy. Ông vội vàng giật nhanh tay mình ra khỏi tay nắm chặt của người phụ nữ vẫn đang khóc, xong ông vội lấy áo lau khô nước mắt, và chạy trở lại với đoàn.

“Thưa thầy, “một trong những người đã đến giúp ông khuyên ông một cách ân cần”, nếu ai hỏi chuyện gì đã xảy ra, thầy chỉ nói với họ người trong gia đình bà ta qua đời cho nên bà ta nhờ thầy thắp những ngọn đèn bơ và tụng kinh cầu siêu cho người đã khuất ở chùa Jokhang khi thầy trở lại Lhasa.” Nyima Tsering gật đầu liền, nhưng cảm thấy đau nhói trong lòng. Tưởng như mọi chuyện đã xảy ra đã được chấp nhận, chẳng một ai liếc nhìn ông hay nói lời nào khi ông đến gần. Tựa như chẳng có chuyện gì xảy ra - chẳng có gì đáng bàn tán.

Cuối cùng đã đến lúc rời Na Uy - nhưng không rời ngay. Phái đoàn phải chờ thật lâu ở phi trường: hơn hai giờ. Những người đứng đầu và cán bộ từ tòa đại sứ, kể cả người không bao giờ tách rời Nyima Tsering suốt bốn ngày qua, đã đi về sau khi đưa phái đoàn ra phi trường. Trong những giờ chờ đợi dằng dặc này mọi người ngồi, đứng, đi qua đi lại trong phòng chờ phi trường sáng sủa, rộng rãi và ấm cúng. Bất luận họ là công dân nước nào chăng nữa, họ đều có vẻ tự do và thanh thản. Nyima Tsering cũng đi thơ thẩn qua lại tự do. Dường như chẳng ai theo dõi ông, điều này khiến ông cảm thấy ông có thể đi đâu tùy ý. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu ông: Nếu mình không đi với họ thì sao? Dù sao, hộ chiếu ở trong người mình, và mình có đủ tiền. Nếu mình mua vé khác đi đến nơi nào đấy...

Tất nhiên, đó chỉ là một ý nghĩ thoáng qua. Như tôi đề cập vào lúc đầu, Nyima Tsering lúc nào cũng điềm đạm, chín chắn, và tự tin. Cho nên cuối cùng, ông - con kiến trong chảo nóng - trở lại với đoàn. Trở về quê hương dường như là cách tốt nhất cho ông. Tuy nhiên, khi máy bay chầm chậm rời phi trường Oslo, khi Na Uy-biểu tượng của thế giới tự do - dần dần bỏ lại phía sau, hai dòng nước mắt lặng lẽ chảy dài xuống đôi má gầy guộc của Tsering.


Nguồn:

Dịch từ tạp chí Mānoa, chủ đề “Beyond Words-Asian writers on their work”, University of Hawai’s Press, 2006. Trang 97-103. Bản dịch tiếng Anh của Jampa, Bhuchung D. Sonam, Tenzin Tsundue, và Jane Perkins. Tựa đề của người dịch, tựa đề tiếng Anh “Nyima Tsering’s Tears”.

Trần Quốc Việt- Những ngày mưa gió đi về


Trong những ngày mưa gió đi về này, mỗi khi nghĩ về tình cảnh Việt Nam không hiểu tại sao tôi nhớ lại một câu chuyện hài mà đượm nhiều nước mắt hơn tiếng cười như sau.

Thấy người chủ mới hai giờ chiều đã đi về, một người thợ lợi dụng lúc chủ vắng cũng bỏ về nhà rất sớm hơn thường lệ. Đến nhà, hắn thấy chiếc xe của chủ đậu trước nhà mình. Không nén được tò mò, hắn rướn người lên nhìn qua cửa sổ và thấy chủ với vợ mình đang ân ái trên giường.

Hắn từ từ đi lùi nhẹ bước ra xe của mình và về lại nơi làm. Những người thợ bạn ngạc nhiên hỏi hắn. 

Hắn kể lại tất cả và cười đáp: "May quá! Ổng không thấy tao, nếu không chắc tao bị đuổi việc vì tội bỏ về sớm." 

Chúng ta giống như người thợ trong chuyện. Chúng ta thờ ơ với mọi sự, buông xuôi tất cả, bỏ mặc tất cả những giá trị nền tảng của xã hội như văn hóa, đạo đức, tín ngưỡng trôi theo dòng thác lũ của sự vô cảm. Chúng ta mặc kệ chế độ làm gì thì làm từ việc hèn với giặc ác với dân đến việc chế giễu chúng ta là những kẻ thoái hóa. Họ coi chúng ta chẳng khác gì những nô lệ thiểu năng trí tuệ trong rạp xiếc nơi họ diễn trò góp ý hiến pháp, nơi họ tung xiếc những từ ngữ mị dân sáo rỗng. Chúng ta có kiên nhẫn ngồi chờ cho chế độ tàn cuộc vui mà không có can đảm bỏ về hay kéo sụp đổ rạp xiếc ấy.

Những thế hệ không có trách nhiệm với tương lai của những thế hệ sau thì đừng nên có con.

Những thế hệ hôm nay không tự đứng lên đôi chân của mình để trở thành người tự do thì họ và con cháu sẽ nằm phủ phục trước bạo quyền hôm nay và ngày mai.

Chúng ta bị hãm hiếp suốt bao nhiêu năm dài: hãm hiếp đạo đức, hãm hiếp nhân phẩm, hãm hiếp niềm tin, hãm hiếp quê hương...

Nhưng trong những ngày mưa gió đi về này, ngồi quanh chiếu rượu, chúng ta hân hoan cười nói: "May quá! Mình đã sống qua bao nhiêu năm này bình an."

Bên ngoài mưa gió đi về. Mưa gió không đủ mạnh để tạo thành bão cho nên bầu trời bao nhiêu năm qua mãi xám xịt nặng nề như tấm vải liệm dệt bằng nước mắt rủ xuống những thế hệ tương lai.

Trần Quốc Việt- Những con thú trong con người


Sau khi làm “cách mạng” cướp chính quyền, họ bắt đầu tàn sát hàng triệu người qua chiến tranh và khủng bố. Người dân sợ họ vô cùng và gọi họ là những con cọp. 

Nắm quyền lực và thống trị tuyệt đối nhân dân rồi, họ bắt đầu ăn không từ một thứ gì để vơ vét và làm giàu. Người dân nguyền rủa họ không tiếc lời và gọi họ là những con lợn.

Tích lũy của cải khổng lồ xong, họ bắt đầu khoe nhà vàng, lầu ngọc một cách kệch cỡm của những kẻ vô học. Người dân ghê tởm họ và gọi họ là những con cóc.

Họ bắt đầu no cơm ấm cật rồi sướng quá hóa cuồng, tối ngày chỉ mơ chuyện chăn gối. Người dân cười họ và gọi họ là những con dê. 

Còn họ coi nhân dân là những con cừu gọi dạ bảo vâng. Và họ nghĩ những con cừu này là tầng lớp trâu bò nai sức ra cày để nuôi béo họ và gia đình. 

Họ từng tuyên bố: “Không con bò hay con lừa nào có thể ngăn cản tiến bộ của chủ nghĩa xã hội.” (1) 

Dưới mắt ta họ là những người hóa thú. Dưới mắt họ ta cũng là người thành thú. Cho nên xã hội ngày nay trở thành rừng rú nơi những con thú quyền thế cai trị và bóc lột những con thú nô lệ, và những con thú nô lệ cùng quẩn quay ra cắn xé lẫn nhau. 

Trách họ một thì trách ta mười. Mình phải như thế nào những con thú này mới coi mình là những con thú nô lệ được chúng chăn dắt để đi tìm chủ nghĩa xã hội hoàn thiện trên con đường hóa thú trăm năm chứ. 




________________________________________

(1) Lời của Erich Honecker, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Đức vào ngày 7 tháng 10, 1989. 

Trần Quốc Việt- Những con cóc vàng


Sau khi nhai nghiến ngấu máu, xương, da, thịt, hạnh phúc, tâm hồn và lương tâm của hàng triệu sinh linh, da con cóc chúa từ màu vàng chuyển sang màu đỏ hồng và cuối cùng thành màu đen tuyền vĩnh cửu, đen hơn cả bóng tối của bốn ngàn năm dồn lại.

Con cóc đen chết, xác được đặt trong hang đen, sâu thẳm, và nồng nặc ngất trời mùi tử khí oan khuất lưu cửu. Nó chết nhưng vẫn ngự trị qua hình ảnh, khẩu hiệu, màu cờ, và qua mùi cóc chết vẫn lan tỏa ra khắp nơi và liệm kín từ từ cảnh vật và con người.

Những con cóc đen, dòng giống của con cóc chúa, sinh sôi khắp nơi. Chúng ngồi chồm hổm trên cả nước, chúng phóng uế vào chốn thâm nghiêm, vào góc riêng tư, vào nơi trong sáng thơ ngây. Chúng ngồi ngự trị trong tù, chúng ngồi núp trên đường, chúng nhảy lên bàn Quốc hội, lên ghế quan tòa, lên ngòi bút. Chúng bôi đen trẻ thơ. Chúng nhảy ào ào vào đất dân để ngồi chiếm cứ để lập hang, dựng lãnh địa. Chúng rao giảng đạo đức Cóc, chúng ngồi trên lịch sử để sáng tác ra lịch sử Cóc, chúng tung hô dòng họ Cóc vốn đã bị đào thải khắp nơi bên ngoài nước Cóc lẻ loi của chúng.

Hôm nay, chúng tiến hóa không phải qua hàng triệu năm mà qua hàng triệu số phận con người mà chúng đã nhảy lên và bám chặc không rời vào người họ để hút máu và nhai xương họ. Qua thời gian bóc lột hóa ngắn này, chúng hóa thành những con cóc vàng bụng phệ, sống phè phỡn ghê tởm và đú đởn trong những lâu đài vàng, ngồi chễm chệ chồm hổm trên những chiếc ghế vàng chạm đầu rồng ngậm ngọc.

Dưới lớp vàng ấy là muôn vàn lớp máu, lớp đau khổ, lớp thở dài, lớp lo âu, lớp oan ức triền miên của bao kiếp người.

Những con cóc vàng này sẽ thụ hưởng để chờ ngày nhân dân đứng dậy dẹp tan chúng, đuổi chúng trở lại vào hang rậm đầm lầy quê cũ của chúng. Trước, trong và sau thời gian đứng dậy ấy, đám người cóc vàng này sẽ xếp hàng trước cửa địa ngục nhân quả để chờ mang lông đội sừng cho kiếp sau.

Thời người thành cóc và cóc nhảy lên thành người là thời của tôi và bạn. Hãy hành động trước khi cóc nhiều hơn người và trước khi con cháu ta biết đâu sẽ trở thành những con cóc đen, vàng, đỏ ngồi phóng uế lên tương lai của quê hương.

29.3.16

Trần Quốc Việt- Hãy để cho mọi người biết




Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền kết tinh hai mươi thế kỷ văn minh tinh thần và đạo dức của nhân loại. Lần đầu tiên trong lịch sử đa phần nhân loại cam kết với nhau rằng mỗi con người trong mắt của tất cả mọi người là con người đích thực với tất cả sự trọn vẹn về nhân phẩm và tự do. Con người bắt dầu học để đối xử với nhau một cách nhân ái và văn minh. 

Trong suốt hai năm trời các đại biểu từ sáu lục địa đã thảo luận, viết và sửa đi sửa lại bản thảo trong hàng ngàn giờ để rồi cuối cùng vào lúc ba giờ sáng ngày 10 tháng Mười Hai năm 1948 Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền chính thức thông qua. 

Con đường thành hình bản tuyên ngôn này là con đường chạy dài gần như suốt lịch sử nền văn minh tinh thần của con người. Hạt giống nhân quyền bén rễ đầu tiên ở Hy Lạp cổ đại nơi người ta tin vào những luật tự nhiên phổ quát, và người La Mã hoàn thiện những khái niệm về thượng tôn pháp luật; rồi đến những triết gia Khai Sáng, những người tin tự do là điều kiện tự nhiên và mục đích của chính quyền là phục vụ và bảo vệ công dân. 

Nhưng vào ngày 9 tháng Bảy năm 1975 nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn phát biểu như sau trong bài diễn văn tại New York: 

"Chúng tôi là nô lệ ở đấy ngay từ lúc chào đời. Chúng tôi sinh ra là nô lệ. Tôi không còn trẻ nữa, và chính tôi đã là nô lệ lúc sinh ra; điều này càng đúng hơn đối với những người trẻ hơn. Chúng tôi là nô lệ, nhưng chúng tôi đang cố gắng để được tự do." 

Lời than của Solzhenitsyn sau này được nhiều người Nga lập lại trong những năm cuối cùng của chế độ cộng sản toàn trị ở Liên Xô. Nhà thơ Nga nổi tiếng Robert Rozhdesvensky còn buồn thảm hơn trong lời thơ sau: 

Và ngay cả khi những con tàu vũ trụ của chúng ta bay giữa các vì sao, 
Chúng ta vẫn còn là những nô lệ, những nô lệ. 
Và giống như vết nhơ quá đậm, sự nô lệ này của chúng ta không thể nào rửa sạch. 

Mỗi người trong chế độ toàn trị đều thấm ít nhiều chất nô lệ mà xiềng xích không những chân tay mà còn cả tinh thần và ý chí của họ. 

Như vậy ánh sáng thiêng liêng của Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền đã không xuyên thủng được bóng tối dày đặc che kín toàn bộ cuộc đời của các nô lệ ở các nước cộng sản. Đa phần họ là những nô lệ đáng thương không nhận thức rằng mình là nô lệ vì họ không biết đến nhân phẩm và tự do bất khả xâm phạm mà mỗi con người đều được hưởng lúc sinh ra. 

Đối với người chủ người nô lệ nào ý thức được giá trị tự do và nhân phẩm của mình là thùng thuốc nổ đang chờ que diêm. Cho nên các chế độ toàn trị rất sợ Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Họ dựng lên tầng tầng lớp lớp bức tường và hàng rào kẽm gai để ngăn chặn sự lan tỏa tinh thần của bản tuyên ngôn. Bên trong những trại tập trung giam giữ tâm hồn con người ấy, mỗi tối dưới bầu trời không trăng sao, các cai ngục chiếu lên nền trời những ngụy từ lung linh như độc lập tự do và hạnh phúc để ru các nô lệ vào giấc ngủ để chuẩn bị cho ngày nô lệ mới. 

Trở thành công dân tự do có trách nhiệm là con đường duy nhất để thoát ra khỏi cảnh nô lệ thể chất và tinh thần như lời của một nhà báo Nga viết vào cuối năm 1989: 

"Từ suy nghĩ mình là con ốc hay răng cưa rất nhỏ trong guồng máy khổng lồ nghiền nát hàng triệu số phận con người đến sự thấu hiểu mỗi cuộc đời là duy nhất. Và từ nô lệ hân hoan khi nhận khẩu phần thực phẩm đến trách nhiệm của người tự do." 

Tại sao những người dân Liên Xô mới nhận thức họ là nô lệ chỉ vào những năm tồn tại cuối cùng của chế độ. Một nguyên nhân là mọi người không biết đến Bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền. Hơn nữa chế độ còn ban ra hiến pháp và luật pháp mà, nếu xét trên bề mặt, còn tốt hơn nhiều những nước có truyền thống tự do và dân chủ lâu đời. 

Nhưng tất cả các quyền con người và sự thượng tôn pháp luật trên các văn kiện ấy của các nước toàn trị chỉ là trên giấy tờ. 

Triết gia thời Khai Sáng Voltaire đã trả lời khi được hỏi nên làm gì với nhân quyền: 

"Hãy để cho mọi người biết." 

Khi hàng triệu nô lệ biết nhân phẩm và tự do là giá trị và quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của mình lúc chào đời là lúc những chế độ toàn trị bắt đầu run sợ. Từ nhận thức đến hành động chỉ là vấn đề thời gian vì cuộc cách mạng tự do cá nhân đã bắt đầu nẩy mầm trong lòng của mỗi người nô lệ. 

Bằng tất cả chân thành và can đảm, các bạn trẻ Việt Nam bắt đầu làm theo lời khuyên của Voltaire - hãy để cho mọi người biết. Nhờ họ Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền đã xuống đường để vào lòng người. 

Là người của những thế hệ ngồi chờ, tôi kính chào các bạn - những người trẻ thuộc thế hệ đứng dậy - đang bắt đầu đóng chiếc đinh đầu tiên vào quan tài của chế độ. 

Trần Quốc Việt- Nhân quả


Tội ác của cộng sản là một đại dương sâu thẳm và vô bờ bến. Đại dương ấy sẽ không còn sâu thêm và rộng hơn chỉ khi các bóng ma cộng sản cuối cùng biến mất vĩnh viễn khỏi trái đất.

Một giọt nước mà mới rơi xuống đại dương ấy là tội ác mới được phơi bày của chế độ cộng sản Việt Nam đối với cựu tù lương tâm Huỳnh Anh Trí. Do phải dùng chung dao lam cạo râu hay do bị cùm trong các cùm còn rướm máu của những tù nhân bị nhiễm HIV đã bị cùm trước đó nên anh Trí hiện mắc bệnh AIDS ở giai đoạn cuối.

Bác sĩ Nguyễn Đan Quế kể ông chứng kiến một tu sĩ công giáo rất trẻ hấp hối bị bỏ mặc cả ngày dưới ánh nắng gay gắt. Thêm một giọt nước nữa đã rơi tự lâu xuống đại dương ấy giờ mới vang vọng đến lương tâm chúng ta. Gần một trăm năm qua muôn vàn triệu giọt nước tội ác như thế và hơn thế đã tích tụ lại trong đại dương vô cùng tận ấy mà khởi đi từ ý thức hệ vô nhân đạo nhất và tàn ác nhất trong lịch sử loài người.

Người cộng sản tàn ác vì họ không có khái niệm về thiện và ác mà nuôi dưỡng và hình thành nền văn minh nhân bản và tinh thần của con người. Cho nên chống cộng không chỉ đơn thuần là hành động chính trị mà còn là một hành động khôi phục khái niệm cơ bản thiện và ác đã mờ nhạt trong xã hội-nhà tù toàn trị.

Tội ác của các chế độ cộng sản là vô cùng tận vì những người gián tiếp và trực tiếp gây ra tội ác không còn lương tâm hướng thiện của con người. Thay vào lương tâm đã bị tẩy trắng ấy là dùi cui, báng súng, gông cùm, thủ đoạn, pháp trường, gian dối, và bản năng hoang sơ. Nơi ánh sáng lương tri và thương yêu đã tắt con thú trỗi dậy trong tim người để điều khiển hành động của họ.

Cho nên cộng sản căm ghét tôn giáo vì tôn giáo, qua hành động gieo mầm thiện trong lòng con người, đã cản trở quá trình thú hóa con người của cộng sản.

Cho nên cộng sản căm ghét những nhà bất đồng chính kiến và những tù nhân lương tâm vì họ là tiếng nói đạo đức cho xã hội bị áp bức, là hình ảnh nhân phẩm cho xã hội bị tước đoạt nhân phẩm, là tương lai cho xã hội chỉ có quá khứ, là niềm hy vọng cho xã hội tuyệt vọng về chính trị.

Đức Phật dạy nếu con người nói hay hành động với tâm ác thì đau khổ sẽ theo họ như bánh xe theo chân của con bò kéo xe và nếu con người nói hay hành động với tâm thiện, hạnh phúc sẽ theo họ như hình với bóng. Nhân quả ấy hiển hiện trong nhà tù cộng sản nơi cuộc đấu tranh giữa những người tù lương tâm và chế độ là cuộc đấu tranh giữa tâm thiện và tâm ác.

Người tù lương tâm vào tù với trái tim trong sáng vì họ đấu tranh cho chính nghĩa, công lý, tự do và nhân phẩm. Họ không ký giấy nhận tội để ra tù, họ không khuất phục, họ thương yêu và bênh vực những người tù đồng cảnh. Thể xác của họ có thể bị hủy diệt nhưng lương tâm, tâm hồn, và ý chí của họ càng trong sáng và mạnh mẽ. Ra tù họ vẫn tiếp tục đấu tranh bằng nhiều cách trong khả năng của mình để góp phần thay đổi xã hội tốt hơn. Niềm hạnh phúc tâm hồn này theo họ như hình với bóng dù trong xà lim tù hay ở xã hội bên ngoài. Nhà tù là nơi tâm hồn họ trở nên cao thượng hơn và nhân ái hơn. Hãy nghe và nhìn chị Đỗ thị Minh Hạnh hát những bài hát chị sáng tác trong tù hay hãy đọc những bài thơ trong tù của anh Lê Công Định. Tâm hồn họ tỏa sáng hạnh phúc nội tâm mà không một chế độ phi nhân nào có thể dập tắt được.

Những công an, cai tù, quản giáo - những khuôn mặt hiện thân của chế độ trong nhà tù- là những người đã trao lương tâm họ cho chế độ. Vì thế họ là công cụ không hơn không kém. Tính người ở họ đã không còn khi họ xuống tay hay ra lệnh đánh đập, tra tấn hay hành hạ những người tù lương tâm bằng mọi cách không lương thiện. Bên ngoài họ có vẻ thỏa mãn với địa vị và quyền hành sinh sát với tù nhân. Nhưng họ là con người ở ngoài xã hội và là con thú ở trong tù nơi niềm vui và sự thành đạt của họ tỷ lệ với mức độ đau đớn về thể chất của những người tù.

"Nhưng tại sao số phận không trừng phạt họ mà họ còn giàu có lên?" Nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn hỏi như thế và trả lời như sau:

" Câu trả lời duy nhất cho câu hỏi này là ý nghĩa của sự tồn tại trên trần thế này không ở sự thành đạt như chúng ta quen suy nghĩ, mà ở sự phát triển tâm hồn. Từ quan điểm này, những kẻ tra tấn chúng tôi đã bị trừng phạt một cách khủng khiếp nhất: họ đang rơi xuống và biến thành những con lợn, ngày càng xa dần con người."

Trần Quốc Việt-Can đảm làm nên lịch sử



Trong bài diễn văn đọc vào tháng Sáu 1965 trước những sinh viên sắp ra trường, Mục sư Martin Luther King khuyên họ nên đấu tranh cho cuộc cách mạng xã hội để tạo ra một nước Mỹ bình đẳng hơn, tự do hơn, và cơ hội hơn cho tất cả mọi người không phân biệt màu da hay chủng tộc. Ông nói "đừng bao giờ để cho người ta nói rằng các bạn chỉ là những kẻ đứng nhìn thầm lặng, những khán giả thờ ơ mà các bạn hãy là những người tham gia tích cực để biến công bằng thành hiện thực." Đặc biệt ông khuyên không nên chờ đợi vì sự tiến bộ của xã hội không bao giờ diễn ra tất yếu. Đằng sau bánh xe của lịch sử là những con người dấn thân tận tụy, can đảm, và bền bỉ. Và theo ông, nếu chờ đợi thì "thời gian sẽ trở thành đồng minh của những thế lực trì trệ xã hội lạc hậu."Hãy giúp thời gian tăng tốc lịch sử là sự thôi thúc của lương tâm trong lòng những người đi khai phá con đường tương lai chung.

Xét cho cùng, cuộc cách mạng nào cũng khởi đi từ một thiểu số những cá nhân dấn thân can đảm và kết thúc bằng sự tham gia đồng loạt của rất nhiều người. Thiểu số mở đường ấy chính là những người đấu tranh say mê không ngừng nghỉ "để nhóm lên những bụi lửa tự do trong tâm hồn con người." (1) 

Can đảm là nhiên liệu không thể thiếu mà chuyến tàu lịch sử cần phải có để ít nhất rời khỏi nhà ga số phận. Nếu Điếu cày và vài đồng đội của ông không đứng lẻ loi trên thềm nhà hát lớn năm nào để phản đối Trung Quốc thì những cuộc biểu tình chống Trung Quốc biết lúc nào mới bắt đầu. Chính họ, đặc biệt Điếu Cày, đã khởi động lịch sử của những cuộc xuống đường chống Trung Quốc! 

Tự do không thể có nếu không có can đảm. Chúng ta hãy nhìn lại những trường hợp can đảm tạo ra lịch sử. 

Vào tháng Mười 1986 Tổng thống Mỹ Reagan đến Iceland họp thượng đỉnh với Tổng bí thư Liên Xô Gorbachev để bàn về hiệp ước kiểm soát vũ khí. Khi hai bên dường như thương lượng gần xong sau nhiều ngày họp, Gorbachev mỉm cười và nói với Reagan, "Tất nhiên, điều này còn phụ thuộc vào việc ông từ bỏ Sáng Kiến Phòng thủ Chiến lược (SDI)." 

Reagan kể lại "Tôi sửng sờ không tin được và rất giận... Tôi chợt hiểu ra rằng ông ta mời tôi đến Iceland họp với một mục đích duy nhất: giết chết Sáng Kiến Phòng thủ Chiến lược." Điều Reagan làm sau đó khiến cả thế giới sửng sốt. Tổng thống quay sang Bộ trưởng ngoại giao Mỹ George Shultz nói, "Thôi cuộc họp như thế là xong. George, chúng ta đi về thôi." Và ông bước ra khỏi phòng họp. 

Reagan không ký hiệp ước bất chấp hậu quả về chính trị cho ông hay phản ứng của dư luận thế giới vì ông tin vào lẽ phải và đấu tranh vì lẽ phải. Chỉ vài năm sau Liên Xô sụp đổ. Một phần nhờ can đảm đã khiến Reagan đứng lên bỏ về này mà hàng triệu người bị áp bức trong các chế độ toàn trị cộng sản ở Đông Âu tìm lại được tự do và nhân phẩm của mình. 

Khác với Reagan, Rosa Parks chỉ là một người thợ may da đen bình thường hầu như không ai biết đến. Nhưng bằng hành động can đảm là không nhường ghế trên xe buýt cho người da trắng lên sau, bà đã góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh dân quyền cho hàng triệu người da đen bị kỳ thị. Cả Reagan và Rosa Parks góp phần mở ra những con đường giải phóng cho biết bao nhiêu người phải sống trong sự kỳ thị đè nén lên số phận của họ hay cho hàng triệu những người nô lệ sống dưới ách toàn trị cộng sản. Hôm nay nghĩ về những người can đảm cao nhất và thấp nhất trên nấc thang quyền lực này chúng ta hiểu sâu sắc hơn ý nghĩa của câu người Mỹ thường nói về nước họ - "đất nước của những người tự do nhờ những người can đảm." 

Bức tường Berlin sụp đổ không phải từ Berlin mà từ thành phố Leipzig cách Berlin gần 200 cây số. Và bức tường không phải sụp đổ vào ngày 9 tháng Mười Một, 1989 mà sụp đổ vào đêm 9 tháng Mười khi 70.000 người đan cánh tay vào nhau, tay cầm cả một biển nến, và cả biểu ngữ đòi tự do bất chấp lời cảnh cáo của chính quyền là sẽ có đổ máu. Nhà cầm quyền không nói suông. Trước đêm hôm ấy họ đã ra lệnh các bác sĩ và y tá phải trực đêm ở bệnh viện và các bệnh viện phải trữ sẵn một số lượng máu và huyết tương rất lớn. Công an cho các y bác sĩ biết họ sẽ chữa trị nhiều người sẽ bị bắn tối hôm đó. 

Can đảm dân sự đã thắng được trước tiên bức tường sợ hãi đè nén lên trong lòng những cá nhân hơn 40 năm trời. Một khi bức tường sợ hãi trong lòng sụp đổ thì chỉ là vấn đề thời gian trước khi bức tường bắng xi măng và cốt thép sụp theo trong tiếng reo hò vỡ tung ra dưới bầu trời đêm, trước biết bao nụ cười, nước mắt, nụ hôn trong biển người nô lệ vừa giành được tự do. 

Để biết họ can đảm như thế nào chúng ta hãy nghe một trong những người biểu tình vào đêm lịch sử đầu tiên vào ngày 9 tháng Mười kể lại. Valentine Kosch là cô giáo. Tối hôm ấy trước khi ra khỏi nhà để biểu tình, chị đã giải thích với hai đứa con gái của mình rằng mẹ chúng sẽ đi tuần hành với nhiều người bạn để cho các thầy cô giáo hòa nhã hơn và nhân ái hơn đối với học trò. Rồi chị dặn chồng rằng nếu tối nay chị không trở về trước 10 giờ tối thì chồng chị nên đưa hai con đến thành phố Dresden để làm lại cuộc đời ở đấy, nơi hai đứa con gái sẽ không bị xem là con của kẻ thù của nhà nước.(2) 

Tối hôm ấy, rất nhiều người như chị suy nghĩ ra đi là chấp nhận. Họ đã vượt qua bức tường sợ hãi trong lòng. Lịch sử nước Đức bắt đầu sang trang mới. Sức mạnh ôn hòa của 70 ngàn người đi trong đêm tối và sát cánh bên nhau trong lời kinh cầu nguyện giữa một biển ánh nén đã khiến cả hệ thống chỉ huy chống biểu tình tê liệt từ trên xuống dưới. Không ai dám ra lệnh bắn. Lãnh đạo thành phố gọi liên tục về Berlin xin chỉ thị nhưng cũng không ai dám bắt điện thoại ra lệnh bắn trước biển người ôn hòa rất can đảm như chị Valentine Kosch. 

Nhà văn Nga Alexander Solzhenitsyn từng nói: "Cái giá của hèn nhát sẽ chỉ là cái ác; chúng ta sẽ gặt hái được can đảm và chiến thắng chỉ khi chúng ta dám hy sinh." 

Tự do sinh ra từ can đảm và can đảm sinh ra từ sự chấp nhận hy sinh vì một tương lai tốt đẹp hơn cho thế hệ sau, vì lẽ phải và công lý, vì lương tâm và trách nhiệm đối với tương lai của gia đình và tổ quốc. 

Cách đây 2.500 năm Alexander Đại đế nói: "Tôi không sợ đạo quân sư tử do cừu lãnh đạo, tôi sợ đạo quân cừu do sư tử lãnh đạo." 

Phải chăng chúng ta cứ mãi mãi là những con cừu kêu be be tuyệt vọng theo tiếng gọi của những con cừu lãnh đạo hèn nhát đang kìm hãm tương lai của đất nước và đang đưa đất nước vào thời kỳ Bắc Thuộc mới hay, nếu vượt qua sợ hãi, mỗi người chúng ta sẽ là những chiến binh sư tử của đạo quân yêu nước tiến bước mạnh mẽ đến một Việt Nam tự do và độc lập muôn năm. 

Trần Quốc Việt- Con đường lương tâm



Nhà văn Anh George Orwell viết "Trong thời đại dối trá phổ quát - nói lên sự thật là hành động cách mạng." Nhiều người thuộc nhiều thế hệ ở Việt Nam đã hay đang trả giá cho hành động cách mạng ấy từ Nguyễn Mạnh Tường đến Việt Khang. Người kế đến thuộc thế hệ trẻ hơn - Nguyễn Phương Uyên.

Trong chế độ toàn trị nơi bạo lực và dối trá ngự trị thì tự do ngôn luận là điều không tưởng. Cho nên nói lên sự thật trước tiên là một hành động can đảm. Khi Việt Khang viết "chống kẻ nhu nhược bán nước Việt Nam" và "bàn tay nào nhuộm đầy máu đồng bào" anh đã đánh thẳng vào thành trì của quyền lực, vào lực lượng thanh kiếm và lá chắn ra sức bảo vệ thành trì ấy. Mọi người ai ai cũng có thể nói ra những điều như thế hoặc hơn thế nữa ở chốn riêng tư nhưng anh là người đầu tiên nói ra một cách công khai qua âm nhạc. Bằng hai bản nhạc bất hủ chưa từng có này Việt Khang đã khắc tên anh trong lòng hàng triệu người Việt trong và ngoài nước.

Con đường Sự Thật đã in dấu chân can đảm của nhiều thế hệ. Con đường ấy khởi đi từ nỗi đau của Nguyễn Mạnh Tường "một người công dân đau khổ trước bao nhiêu cái chết oan của người vô tội", đến thơ của Lê Đạt "đem bục công an đặt giữa trái tim người/ Bắt tình cảm ngược xuôi/ Theo luật lệ đi đường nhà nước"đến nhạc của Việt Khang đến thơ của Nguyễn Phương Uyên "Đất nước tôi không có chiến tranh/ Mà nghe đau thắt ở trong lòng.../Núp dưới ảnh Bác và cờ đảng/ Chúng cơ hội bóc lột dân lành"Tinh thần Tự do và Sự thật vẫn quật cường tiềm ẩn trong từng thế hệ Việt Nam cho đến khi nào chế độ toàn trị đi vào nghĩa trang lịch sử. 

Nhưng tại sao Lịch sử chọn họ mà không chọn ta để đi trên con đường đau khổ ấy? Lịch sử chọn họ vì họ can đảm. Họ can đảm không phải vì họ không sợ. Họ sợ như tất cả mọi người trong chúng ta nhưng họ đã nhìn thật sâu vào tâm hồn của mình để vượt qua được sợ hãi. Can đảm là phía bên kia của bức tường sợ hãi. Sau lưng họ là bức tường đổ nát, trước mắt họ là ánh sáng soi đường của lương tâm. 

Nhiều người đứng bên lề trách họ "dại khờ". Tại sao họ chọn con đường khó mà đi? Họ không chọn con đường dễ hay khó. Họ chỉ theo con đường lương tâm họ đã soi sáng. Họ có thể buồn vì gia đình vì họ mà đau khổ vất vả hay con họ lớn lên vắng bóng cha. Nhưng họ không buồn và hối hận đã đi theo con đường lương tâm đã chọn cho họ. 

Ước gì có nhiều người "dại khờ" như họ để nói lên sự thật như lời của nhà văn Nga Boris Pasternak: "Trong mỗi thế hệ phải có những kẻ dại khờ sẽ nói lên sự thật như họ thấy." 

Nhưng như cơn gió đưa hương thơm của hoa đi xa, ngày họ vào tù là ngày họ đã gieo những hạt giống hy vọng và can đảm trong lòng những người ở bên ngoài. Trong những hạt giống rơi xuống lòng nhiều người ấy sẽ có những hạt giống sống được để ươm mầm can đảm cho những người khác tiếp tục đi trên con đường chung đã chọn của nhiều thế hệ.

Albert Schweitzer- Tôn trọng tất cả sự sống


Trần Quốc Việt dịch

Người thật sự đạo đức là chỉ khi người ấy tuân theo sự thôi thúc giúp đỡ tất cả các sự sống mà người ấy có thể giúp đỡ, và tránh làm hại bất kỳ sự sống nào. Người ấy không hỏi sự sống này hay sự sống nọ giá trị nhiều bao nhiêu để xứng đáng với sự cảm thông của mình, và ngoài điều ấy ra, cũng không hỏi liệu sự sống ấy có thể có cảm giác hay có cảm giác ở mức độ nào. Sự sống đúng nghĩa là thiêng liêng đối với người ấy. Người ấy không bứt lá trên cây, không hái hoa, và cẩn thận không đè bẹp côn trùng. Vào mùa hè nếu người ấy làm việc bên ánh đèn, người ấy thích đóng kín cửa sổ và thở không khí ngột ngạt còn hơn thấy hết côn trùng này đến côn trùng khác bị cháy xém cánh và rớt lả tả xuống bàn.

Nếu người ấy đi trên đường sau cơn mưa rào và thấy con giun bò lạc vào đường, người ấy suy nghĩ ra rằng chắc nó phải chết khô khi nắng lên, nếu nó không sớm trở về kịp để có thể chui lại vào đất, cho nên người ấy cầm nó lên khỏi mặt đường đá tử thần, và đặt nó trên cỏ. Nếu người ấy tình cờ thấy côn trùng rơi xuống vũng nước, người ấy dừng lại một lát để đưa chiếc lá hay nhánh cây ra mà giúp cứu nó.

Người ấy không sợ bị chê cười là đa cảm. Chính số phận của tất cả các chân lý đều là chủ đề của sự chê cười cho tới khi chúng được tất cả mọi người thừa nhận. Ngày xưa những ai cho rằng những người da màu thật sự là những con người và nên được đối xử như con người đều bị coi là điên rồ. Ngày nay những ai tuyên bố rằng sự tôn trọng thủy chung tất cả mọi sự sống, xuống tới những hình thức sự sống thấp nhất, là sự đòi hỏi của đạo đức lý trí đều bị coi là đã đi quá xa. Tuy nhiên rồi đến lúc người ta sẽ kinh ngạc là nhân loại đã mất thời gian rất lâu mới hiểu sự tổn thương vô tâm đến sự sống là trái ngược với đạo đức.

Đạo đức là trách nhiệm vô hạn đối với tất cả sự sống.

Nguồn: Trích dịch từ tác phẩm “The Philosophy of Civilization” của Albert Schweitzer, nhà xuất bản Promethus Book, New York, 1987, trang 310-311. Tựa đề của người dịch.

Albert Schweitzer- Hãy trở thành người hạnh phúc qua lý tưởng và phụng sự



Trần Quốc Việt dịch Lời người dịch: Albert Schweitzer (1875-1965) là vĩ nhân người Đức rất nổi tiếng. Ông là người thành đạt trên nhiều lĩnh vực từ triết học, tôn giáo đến âm nhạc. Tuy nhiên từ trên đỉnh cao hạnh phúc và danh vọng ấy, ông quyết tâm thực hiện lý tưởng ông ấp ủ từ thời sinh viên. Ông quyết định học y khoa vào lúc ông 31 tuổi. Ông muốn trở thành bác sĩ để phụng sự trực tiếp nhân loại trong suốt đời còn lại vì ông thấy rất nhiều người quanh ông không được hưởng hạnh phúc như ông chỉ vì họ nghèo khổ và bệnh tật. Ra trường ông đến Châu Phi và tự tay xây bệnh viện để giúp điều trị những người cùi bản xứ. Vào năm 1952 ông được trao giải thưởng Nobel Hòa Bình. Ông qua đời ở Châu phi tại nơi ông đã trực tiếp điều trị hàng ngàn bệnh nhân. Ông còn đề ra thuyết triết học “Tôn trọng sự Sống”, theo đó tất cả các sự sống đều phải được trân quý cho dù sự sống ấy chỉ là chiếc lá hay con kiến. Ông là người ảnh hưởng rất lớn đến các phong trào xã hội hiện nay như phong trào bảo vệ thú vật và đến tinh thần thiện nguyện của thanh niên trên thế giới.

Nhân mùa tựu trường, chúng tôi dịch bài nói chuyện sau của ông ở một trường nam trung học ở Anh vào năm 1935. Tựa đề của người dịch.

*

Tôi rất vui là có thể nói chuyện với các em hôm nay. Tôi do dự không biết tôi có nên nói với các em về công việc của tôi vì tôi biết các em quan tâm đến công việc của tôi: nhưng tôi sẽ không nói đến điều ấy, vì tôi muốn nói với các em về điều tôi ấp ủ trong lòng. Tôi muốn nói với các em về chính các em, về con đường các em sẽ theo đuổi trong đời.

Các em chưa tìm thấy con đường mình theo ấy; các em còn ở dưới mái trường đây mà chuẩn bị cho các em vào đời. Nhưng sẽ đến ngày các em bắt đầu bước đi trên con đường sáng tạo ra cuộc đời của mình ấy và rồi các em sẽ muốn biết nên đi theo hướng nào. Và các em sẽ thấy tìm hướng đi còn khó hơn các em tưởng nhiều. Tôi muốn hỏi các em các em sẽ mang theo những tư tưởng gì khi rời trường để bước chân vào đời. Tôi muốn nói cho các em hiểu các em phải có những tư tưởng khi các em bước chân vào đời.

Các em đến trường đây để học. Các em học gì? Các em học nhiều kiến thức khác nhau mà cần thiết để thành đạt trong đời. Các em học ngôn ngữ, các em học vật lý, hóa học, toán… và tôi muốn nói cho các em biết, các em không thể nào học cho đủ. Các em muốn thi đậu, và tôi hy vọng các em sẽ đậu cao. Tôi hy vọng các em sẽ không phải thi đậu quá nhiều kỳ thi. Tôi đã trải qua điều không may mắn là phải thi đậu quá nhiều kỳ thi, cho nên tôi hy vọng các em thi đậu càng ít kỳ thi càng tốt nhưng đậu càng cao càng tốt.

Các em phải có tất cả các loại kiến thức cho cuộc đời và các em cũng nên mang theo những kiến thức cần thiết khi rời trường; nhưng các em cũng phải mang theo những tư tưởng. Các em không chỉ được dạy về kiến thức, các em cũng được dạy để hiểu những tư tưởng. Các em thấy những tư tưởng này trong những cuốn sách các em đọc, các em thấy những tư tưởng này ở các thầy giáo đang dạy các em; đấy chính là mặt trái của giảng dạy. Nhưng trên mặt này các em sẽ không bao giờ phải thi cử vì không có người chấm thi nào có thể nhìn vào tâm hồn các em mà hỏi các em những câu hỏi về những tư tưởng nào các em có khi các em bước chân vào đời. Chính cuộc đời sẽ chấm thi các em và chính cuộc đời sẽ hỏi các em: "Tuổi trẻ có hữu ích cho em? Sau khi hấp thụ vào lòng tất cả những tư tưởng cần thiết, tất cả những tư tưởng em thấy trong sách vở, trong những tác phẩm cổ điển em thấy chúng có hữu ích chăng? Em có mang theo vào đời lý tưởng cần thiết?"

Vì không ai trong chúng ta có thể chỉ sống bằng kiến thức- tất cả các em cũng cần phải suy nghĩ. Các em cần có những tư tưởng nào? Các em cần suy nghĩ về con đường chân chính thành người, không chỉ là người có kiến thức, hay người làm việc giỏi giang, mà còn là người biết mình muốn làm gì. Hãy trở thành người mà biết rằng để sống ta cần sự thật, để sống ta cần lòng tốt, để sống ta cần lòng biết ơn, và trong cuộc sống có cuộc sống tinh thần và chúng ta chỉ nghèo nàn nếu chúng ta bước vào đời mà không nhận thức ra cuộc sống tinh thần ấy. Các em sẽ cần nói: "Ta không chỉ muốn sống cuộc sống bên ngoài.” Các em không muốn trở thành người mà nói: "Ta muốn thành đạt, ta muốn có địa vị tốt, ta muốn sống sung sướng”; nhưng các em muốn trở thành người mà nói: "Ta muốn gìn giữ tâm hồn mình."

Các em rời trường này với chính những tư tưởng như thế. Khi các em vào đời, các em sẽ thấy rất nhiều người đã mất lý tưởng của họ và họ sẽ nói với các em: "Này, đấy là cảm tính thôi; chứ với cái thứ ấy anh sẽ chẳng có thể làm được điều gì thực tế; trên đời điều quan trọng duy nhất là quyết tâm, là biết điều ta muốn và có nhiều kiến thức khác nhau.” Các em đừng để bị lừa dối, đừng khiến cho cuộc đời mình nghèo nàn: hãy biết rằng để sống các em cần tấm lòng giàu có. Các em đừng trở thành những kẻ hoài nghi, hãy trở thành những người đi tìm lý tưởng. Cuộc đời muốn lấy lý tưởng của các em, cho nên các em hãy giữ vững lý tưởng của mình. Các em sẽ cần bảo vệ những lý tưởng ấy và các em dễ bị những tư tưởng bên ngoài đưa đường dẫn lối trong đời. Đừng bao giờ để bị dẫn dắt như thế. Tất cả các em hãy nói lời này: "Ta muốn tâm hồn ta dự phần vào đời ta, vì tất cả thành đạt trong đời còn có nghĩa gì nếu ta đánh mất tâm hồn mình?” Và nếu tôi nói với các em rằng các em cần lý tưởng, đồng thời tôi cũng nói với các em rằng các em phải phụng sự. Cuộc đời các em sẽ nghèo nàn nếu các em chỉ nghĩ về sự thành đạt cho bản thân: mục đích trong đời là phụng sự, là sẵn sàng giúp đỡ những người cần giúp đỡ, là góp phần đạt được những điều nên đạt được.

Tôi không biết các em sẽ theo đuổi những con đường nào. Trong các em sẽ có người trở thành nhà thần học, sẽ có người trở thành thầy giáo và giáo sư, và đối với các em này tôi muốn nói: "Các em hãy biết rằng nghề nghiệp như thế là ơn huệ các em đã nhận được; hãy biết rằng qua nghề nghiệp này các em có thể phụng sự bằng cả tấm lòng của mình, các em không có loại hoạt động bình thường, không phải hoạt động thuần túy vật chất, mà các em đang góp phần dạy dỗ và giáo dục xã hội. Các em hãy biết rằng những ai có thể phụng sự người khác bằng cả tấm lòng của mình thì có thể có hạnh phúc lớn lao trong đời.” Nhưng trong các em có những người sẽ làm việc trong văn phòng, những người sẽ làm việc trong các nhà máy, những người sẽ phải trông coi máy móc-hoạt động của họ sẽ mang tính vật chất; và những ai dễ phải than “Ta không thể nào cống hiến cho đời tấm lòng của mình.” Họ sẽ nói: “Ta phải chỉ làm những thứ không quan hệ gì đến tâm hồn mình.” Nhưng tôi muốn nói với họ: "Không! Số phận không bắt ai trên đời này chỉ có hoạt động vật chất.” Nếu chúng ta tham gia hoạt động vật chất với ý nghĩ làm bổn phận của mình, làm tròn bổn phận của mình, thì như thế mọi hoạt động đều lý tưởng. Đối với những ai có hoạt động thuộc loại ấy tôi muốn nói:“Cũng tìm hoạt động khác cùng với hoạt động ấy; hãy tìm hình thức hoạt động nào đấy mà các em có thể giúp những người khác bằng trái tim nhân ái”- và điều ấy có thể cho ta hạnh phúc thật sự. Trong cuộc đấu tranh chống cái ác chúng ta đang tìm kiếm những người tình nguyện và những người tham gia vào công việc này sẽ cho các em biết rất khó tìm được những người tình nguyện. Tôi để các em tự nói: "Ta muốn là người tình nguyện. Ta không muốn dùng thì giờ cho mình, -cho nghỉ ngơi, cho vui thú bản thân, cho đọc báo… nhưng ta muốn dành nhiều thời gian cho những công việc cần được làm trong xã hội con người chúng ta. Ta phải tìm điều gì đấy khiến lòng ta hạnh phúc.”

Đấy là điều các em nên tìm kiếm trong cuộc đời: không bao giờ thỏa mãn cho tới khi các em đã tìm thấy điều ấy. Có lẽ các em sẽ phải tìm trong thời gian dài. Tôi thường nhận rất nhiều thư từ (tôi hy vọng không ai trong các em sẽ nhận nhiều thư từ như tôi) và trong nhiều thư tôi nhận, có câu hỏi: “Ông có thể cho tôi biết tôi có thể dùng thiện chí của tôi như thế nào? Tôi có thiện chí cống hiến; tôi muốn tìm điều gì tốt mà tôi có thể làm nhưng tôi không thể nào tìm thấy.” Tôi thường nhận những lá thư như thế, và tôi trả lời: “Hãy kiên nhẫn; đừng nghĩ bạn có thể tìm được lời giải ngay. Bạn thấy tôi ở Lambarene nên bạn nghĩ: có người đã tìm thấy sự hoạt động. Nhưng nếu tôi có thể kể cho bạn nghe về cuộc đời tôi, bạn sẽ biết tôi đã tìm kiếm những công việc như thế này trong suốt rất nhiều năm trời rồi chỉ cuối cùng tôi mới tìm thấy nó. Vì vậy nếu bạn muốn dùng suốt đời thiện chí bạn có ấy thì có thể bạn phải tìm kiếm và chờ đợi; chỉ tìm kiếm, và chờ đợi, rồi bạn sẽ tìm thấy.” Và khi tôi trả lời những thư từ như thế tôi thường nói thêm điều khác: "Hãy tìm chuyện bình thường.” Lòng chúng ta thường tìm kiếm điều gì đấy rất lớn lao, điều gì đấy đòi hỏi rất nhiều hy sinh, cho nên thường là lòng chúng ta không thấy những chuyện bình thường. Trước tiên các em phải biết làm những chuyện bình thường trước và thường những chuyện bình thường lại khó làm nhất. Trong những chuyện bình thường này, các em hãy bận rộn giúp những ai cần các em. Các em thấy ai một mình-hãy cố gắng ở bên họ, cố gắng dành vài giờ của các em cho họ, làm như thế các em biết phụng sự: và chỉ đến lúc ấy các em sẽ bắt đầu tìm thấy hạnh phúc đích thực. Tôi không biết số phận các em sẽ ra sao. Nhiều em có lẽ sẽ giữ những chức vụ quan trọng. Có lẽ nhiều em sẽ nổi tiếng nhờ ngòi bút, hay là những họa sĩ nổi tiếng. Nhưng tôi biết một điều: chỉ những ai trong các em đã tìm kiếm và tìm được cách phụng sự thì mới thật sự sẽ hạnh phúc. Những người hạnh phúc là những người đặt mình dưới sự hướng dẫn của trái tim, vì trái tim là lương tri cao quý, lương tri luôn luôn đúng trong cuộc đời.

Nguồn: Dịch từ nội san trường Silcoates School ở Anh, tháng 12 năm 1935, trang 782-785.