10.3.11

Đừng làm hoen ố lương tâm duy nhất

Đây là lời tâm niệm của tôi trong cuộc đời tôi muốn chia xẻ với các bạn đọc:

"Từ bước đi chập chững đầu đời đến bước đi run rẩy cuối đời là trập trùng bao lớp sóng đời vỗ dưới chân người. Đôi lúc ta đi không vững, đôi lúc ta đi vô tình bên số phận người khác, đôi lúc ta đi đầu cúi xuống, đôi lúc ta đi đầu ngẩng lên. Vẫn là đi..., chỉ mong sao ta đi theo đúng hướng tiến hoá của lương tâm Con Người."

Và từ ngày tôi bắt đầu viết và dịch cho đến nay tôi luôn luôn cố gắng đi theo ánh sáng lương tâm soi đường ấy.

Sau khi ra trường đại học, tôi bắt đầu viết các tiểu phẩm. Tiểu phẩm đầu tiên tôi viết về rào cản lý lịch đã ngăn cản biết bao nhiêu người trẻ vào đại học. Tiểu phẩm ấy có tựa đề " Sự tích chàng Tử" viết về chàng trai tên Tống Ngọc Tử vào thời phong kiến. Tử thi đậu nhưng triều đình không cho lên kinh học tiếp. Ngày ngày trên hòn núi nhỏ Tử đứng nhìn ra biển để hy vọng thấy bóng thuyền của các quan từ kinh đô đến. Cuối cùng Tử biến thành đá. Người làng không dám đặt tên Tống Ngọc Tử cho tượng đá vì sợ triều đình trừng phạt. Họ đặt tên tượng là "Con mong Mẹ về ". Đây là lý do đằng sau cái tên ấy. Tử nghĩa là con. Tử rất mong quan mang giấy báo thi đậu đến cho mình như con mong mẹ về nhà, và quan lại thường được người dân kính sợ cho nên có câu nói "quan chi phụ mẫu ". Thế là cái tên Tống Ngọc Tử biến thành Con Mong Mẹ Về. Dưới bài tiểu phẩm, tôi viết "Theo Trần Hồng Quân Tử " và tên tôi, người chép lại truyện. Bộ trưởng giáo dục thời đó tên Trần Hồng Quân. Còn người thật ngoài đời mà tôi dựa vào đó để viết tiểu phẩm ấy từng được báo Thanh Niên bênh vực tên là Tống Châu Sinh ở Huế. Sinh không được vào đại học vì lý lịch xấu.

Sau khi báo ra hai tuần, Sinh được nhận giấy báo đi học đại học Y Khoa Huế. Tôi không dám nhận công lao của mình đã giúp Sinh vào đại học. Công lao chính là của những người làm báo Thanh Niên hồi ấy. Họ dám nêu ra trường hợp của Sinh, và kêu gọi chính quyền địa phương nên cho Sinh đi học đại học. Tôi không phải là giọt nước cuối cùng làm tràn ly hay cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà. Tôi chỉ làm những gì minh nên làm.

Bài tiểu phẩm thứ hai tôi viết về cảnh những người thất nghiệp. Câu chuyện như sau: trong cuộc đua chạy đường trường, người về nhất là cụ già 80 tuổi. Khi ban giám khảo hỏi bí quyết gì giúp cụ thành công không ngờ khi tranh tài với biết bao trai trẻ khác. Quá sững sờ, cụ đáp cụ có biết gì đâu! Rồi cụ phều phào giải thích rằng ngày xưa khi còn thanh niên, cụ có yêu một cô gái gần nhà. Cha cô gái ra điều kiện là khi nào có việc làm đàng hoàng thì ông ta mới gả con gái cho cụ. Do thời buổi việc ít người đông, cụ tìm hoài không ra việc. Năm tháng qua đi hai người vẫn không đến nhau được mà tóc xanh ngày nào giờ thành tóc bạc. Thế rồi một hôm trên đường đi tìm việc, cụ thấy rất có đông người chạy trên đường. Tưởng đâu họ chạy đi xin việc nên cụ cố gắng chạy theo để hy vọng may ra lấy được người yêu hiện vẫn chung thuỷ chờ đợi.


Rồi tôi viết tiểu phẩm thứ ba và cũng gởi cho báo Thanh Niên. Tiểu phẩm này không bao giờ được đăng. Nội dung như sau: các nhà khảo cổ tình cờ phát hiện một nền văn minh rất xưa ở tận sâu trong rừng. Các di vật tìm được chứng tỏ nền văn minh ấy một thời khá phát triến, song không ai biết được nguyên nhân đưa đến sự tàn lụi của nền văn minh này. Nhiều năm sau một nhà khảo cổ tìm thấy một tảng đá rất lớn mà mặt sau của nó có khắc dòng chữ " sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật." Từ đấy, vì không thể tìm ra lời giải hợp lý khả dĩ nào về sự suy tàn của nền văn minh nên giới khảo cổ tin rằng nền văn minh này chết vì con người thời ấy không làm đúng như khẩu hiệu đươc khắc trên đá.


Đường chân trời lãng mạn của tuổi trẻ giờ thu hẹp lại vì tôi bắt đầu thấy đường biên giới của tự do gần hơn, lớn hơn và đáng sợ hơn.

Từ đấy tôi không viết gì nữa vì tôi không muốn thoả hiệp. Tôi bắt đầu dịch bài cho các báo cho đến ngày tôi rời Việt Nam.

Sang đến đất nước đầy nhân ái và cơ hội này, tôi đi học trở lại. Năm cuối ở trường Berkeley, tôi đọc được bài du ký Tây Tạng của một sinh viên MBA trong đó anh kể rằng anh thấy nhiều người Tây Tạng hay nằm vật ra đường khóc than cho thân phận quê hương. Bài báo khiến tôi bồi hồi xúc động. Tôi liền viết một bài về Tây Tạng trong đó tôi bày tỏ lòng lo lắng của mình về sự đổ vỡ tất yếu của nền văn minh độc đáo này trước làn sóng di dân từ Trung Quốc và trước sự bùng nổ về du lịch. Một khi ngôn ngữ và nền văn hoá lâu đời biến mất thì những thế hệ sau chỉ thấy Tây tạng qua những di vật sót lại nằm rải rác trong các viện bào tàng Tây Phương. Tôi gởi bài cho tờ báo của trường. Khi tờ báo ra nhiều người Tây Tạng đến cảm ơn tôi đã nói giùm cho họ. Họ đưa tôi đến dùng cơm tối ở một nhà hàng Tây Tạng và rồi đưa tôi đến thăm nhà họ. Họ hỏi tôi có phải tôi là Phật tử và tại sao tôi viết về Tây Tạng. Tuy không theo đạo Phật, tôi vẫn cảm thông cho tình cảnh tưởng chừng như tuyệt vọng của họ và vì thế tôi viết về họ để san sẽ phần nào nỗi đau tinh thần ấy. Tôi nói với họ tôi chỉ làm những gì minh nên làm.

Hôm nay nhìn lại tôi thấy tôi không đi chệch xa con đường ngay thẳng ấy. Sau này trong thời gian cộng tác với Talawas bằng các bài dịch và bài viết tôi cũng đặt ra chuẩn mực và trách nhiệm của mình là chỉ nói lên sự thật.

Người cầm bút trong hoàn cảnh nào chỉ nên viết những gì mình nên viết, và đừng biến đường thẳng của lương tâm và trách nhiệm thành đường xiên xẹo của nguỵ biện và dối trá. Đừng cầm bút nếu những gì mình viết ra là không đúng hay có hại người khác, và nhất là đừng vẩy mực đen tung toé lên tâm hồn trinh bạch của trẻ thơ. Qua từng dòng chữ của mình, mỗi người cầm bút hãy thắp lên từng chiếc que diêm của lương tâm để đẩy xa dần bóng tối của cái ác trong xã hội. Ánh sáng của các đốm lửa nhỏ nhoi mong manh này có thể không đâm thủng bóng tối nhưng ít ra nó cho người ta hy vọng về sự tồn tại của ánh sáng đạo đức và lương tâm trong bóng tối mịt mùng vây bủa quanh mình.

Vì chúng ta chỉ có một lương tâm duy nhất nên chúng ta không thể nào làm hoen ố nó được.