Trần Quốc Việt dịch
Bắc Kinh – Các hộp điện thư của hơn chục nhà hoạt động nhân quyền, các giáo sư đại học và các nhà báo đưa tin về Trung Quốc đã bị những kẻ đột nhập giấu mặt xâm nhập trong một cuộc tấn công dường như có phối hợp trước. Một tổ chức nhân quyền Trung Quốc cũng cho biết là tin tặc đã đánh sập trang nhà của họ trong năm ngày liền.
Theo những người bị hại, những cuộc xâm nhập này đều liên quan đến các hộp điện thư Yahoo, và dường như nhằm vào những ai viết về Trung Quốc và Đài Loan, đã khiến họ không vào được các hộp thư của mình. Trong trường hợp của người phóng viên viết bài này, các tin tặc đã thay đổi settings của điện thư để tất cả các thư từ đều bị chuyển lén đến một địa chỉ điện thư khác.
Đa số những cuộc tấn công này bắt đầu vào ngày Thứ Năm vừa qua, diễn ra trong cùng tuần lễ khi Google chuyển dịch vụ truy cập từ Trung Quốc lục địa sang một địa điểm ở Hồng Kông, khiến chính quyền Trung Quốc tức giận. Google tuyên bố biện pháp này được đưa ra vì công ty phản đối các quy định về kiểm duyệt và vì công ty tin rằng các đợt tấn công vào những người sử dụng điện thư Google đều xuất pháp từ Trung Quốc.
Những cuộc tấn công trên mạng này, bắt đầu ngay từ tháng Tư năm ngoái, đã ảnh hưởng đến hàng chục công ty Mỹ, hãng luật và nhiều cá nhân; nhiều người trong số họ là người ủng hộ nhân quyền từng chỉ trích chính quyền chuyên chế Trung Quốc.
Các nạn nhân của những cuộc đột nhập gần đây nhất bao gồm một giáo sư luật ở Mỹ, một nhà bình luận chuyên viết về bộ máy an ninh Trung Quốc và vài phóng viên cho các báo giấy thường trú tại Bắc Kinh và Đài Bắc, thủ đô của Đài Loan.
“Quả thật rất đáng ngại”, Clifford Coonan, phóng viên thường trú tại Trung Quốc cho tờ tạp chí Variety, than. Tuần qua anh không mở được hộp thư của mình sau khi Yahoo phát hiện có kẻ đã tiếp cận hộp thư của anh từ xa. “Ta không thể nào không thắc mắc tại sao bọn họ lại nhắm vào mình.”
Trao đổi qua điện thư, Dana Lengkeek, người đại diên cho Yahoo, viện dẫn điều luật của công ty, đã từ chối thảo luận về những vụ này. “Chúng tôi quyết tâm bảo vệ sự an ninh và quyền riêng tư của khách hàng nên trong trường hợp có sự vi phạm chúng tôi sẽ có hành động thích hợp.” Bà Lengkeek nói.
Kathleen McLaughlin, nhà báo tự do người Mỹ tại Bắc Kinh và là người có chân trong ban quản trị của Câu lạc bộ Phóng viên Nước Ngoài tại Trung Quốc, cho biết tổ chức này đã khẳng định rằng 10 nhà báo, trong đó có cả bà, đã có hộp điện thư bị xâm nhập.
Bà nói giống như những người khác bà cũng đã nhận được một thông báo từ Yahoo vào hôm Thứ Năm cho biết hộp thư của bà hiện không mở được vì, theo thông báo được gởi tự động này, “chúng tôi đã phát hiện hộp thư của bạn có vấn đề.”
Bà cho biết bà đã liên lạc với Yahoo nhưng vẫn chưa nhận lời giải thích cho chuyện đã xảy ra. “Rõ ràng có kẻ đang nhắm vào các nhà báo”, bà nói. “Điều này khiến tôi rất khó chịu.” Yahoo, vào năm 2005 đã bán cơ sở thương mại tại Trung Quốc của mình cho công ty mua bán trên mạng Alibaba, trong quá khứ từng bị chỉ trích là hợp tác với các viên chức an ninh của chính quyền. Vào năm 2004, Yahoo đã giao cho họ các thông tin được dùng để truy tố một vài nhà bất đồng chính kiến. Một người trong số đó là nhà báo tên Sư Đào về sau bị án 10 năm tù vì tội tiết lộ một chỉ thị tuyên truyền bí mật.
Mặc dù công ty sở hữu 39 phần trăm cổ phần của Alibaba, nhưng bà Lengkeek, người đại diện cho Yahoo, nhấn mạnh rằng Yahoo đã không còn kiểm soát hoạt động của cơ sở thương mại tại Trung Quốc.
Tuy nhiên khác với Google và Microsoft, công ty vẫn duy trì các máy chủ tại Trung Quốc, đây là một yếu tố khiến những người Trung Quốc nào lo ngại về quyền riêng tư đã tránh xa các dịch vụ điện thư của Yahoo.
Các chuyên gia bảo vệ máy tính nói vụ xâm nhập vào dịch vụ điện thư của Yahoo một lần nữa đã nhấn mạnh đến thử thách mà các công ty Internet đang đối mặt để bảo về khách hàng của mình trước bọn tin tặc.
Paul Wood, một nhà phân tích hệ thống máy tính cấp cao ở công ty Symantec, cho biết một số lượng các virus ngày càng tăng được tạo ra theo từng người nhận cụ thể, nhằm mục đích lừa họ mở những attachment (hồ sơ đính kèm) có cài virus độc hại (malware) vào máy của họ. Ông Wood nói công ty ông tạo ra phần mềm chống virus hiện thời ngăn chặn khoảng 60 vụ tấn công mỗi ngày, tăng từ 1 hay 2 vụ tấn công trong một tuần trong năm 2005. Ông khẳng định “những virus này rất quỷ quyệt và gây hại cực kỳ.”
Vào hôm thứ Hai Symantec ra thông báo công ty đã phát hiện rằng gần 30 phần trăm các vụ tấn công đều xuất phát từ các máy tính ở Trung Quốc, trong số này khoảng độ 20 phần trăm xuất phát từ Thiệu Hưng, một thành phố ít ai biết đến ở tỉnh Triết Giang trước đây nổi tiếng với nghề làm rượu.
Ông Wood và những chuyên gia khác chỉ ra rằng các vụ tấn công dường như xuất phát từ một địa điểm nào đó có thể rất dễ dàng bắt nguồn từ các máy tính bị nhiễm botnet, là một loại virus cho phép các hệ thống máy tính (computing systems) khác kiểm soát từ xa.
Chính loại phần mềm quái ác này có lẽ đã chịu trách nhiệm đánh sập trang mạng của Những người Bảo vệ Nhân quyền Trung Quốc, một tập thể đã chỉ trích cương quyết các sai phạm nhân quyền của Trung Quốc. Kể từ thứ Năm vừa qua, trang mạng tiếng Hoa của nhóm này đã bị quá tải trước những truy cập không thực sự cần thiết (junk requests), đây là chiến thuật có tên là tấn công từ chối dịch vụ (Ddos). Tuy trang mạng này trước đây cũng bị tấn công, nhưng những đợt tấn công như vậy thường không kéo dài quá một vài giờ.
Renee Xia, giám đốc quốc tế cho nhóm nhân quyền này, nói đợt tấn công vào trang mạng bắt đầu cùng ngày công ty Mỹ, Go Daddy, vốn cung cấp dịch vụ cho trang mạng đã tuyên bố rằng công ty sẽ ngừng đăng ký các tên miền tại Trung Quốc. “Biết đâu có lẽ là ngẫu nhiên, nhưng chúng tôi không nghĩ như vậy.” Bà Xia nói.
Google phát hiện ra cuộc tấn công mạng mới
San Francisco — Google cho biết hôm thứ Ba là đã khám phá một cuộc tấn công mạng nhắm vào những người Việt Nam sử dụng Internet trên khắp thế giới. Cuộc tấn công này kém tinh vi hơn những cuộc tấn công xuất phát từ Trung Quốc và dường như nhắm vào những nhà hoạt động nhân quyền người Trung Quốc.
Google cho biết cuộc tấn công này có thể đã làm nhiễm các máy tính của hàng chục ngàn người đã tải phần mềm bàn phím tiếng Việt.
Nguồn: http://www.nytimes.com/2010/03/31/world/asia/31china.html
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
24.3.10
LƯU HIỂU BA- HAI TIẾNG "CÁCH MẠNG" THIÊNG LIÊNG ẤY
Trần Quốc Việt dịch
Ở Trung Quốc cộng sản, không có từ nào thiêng liêng hơn hay phong phú hơn về sự phẫn nộ chính đáng và sức mạnh đạo đức cho bằng từ "cách mạng". Nhân danh cách mạng, chế độ chuyên chế độc đảng và nền độc tài cá nhân được xác lập. Thường xuyên, nhân danh cách mạng, các phong trào chính trị vô nhân đạo được phát động. Nhân danh cách mạng, cá nhân bị tước đi tất cả các quyền họ đáng lẽ được hưởng. Nhân danh cách mạng, nền kinh tế bị huỷ diệt và nền văn hoá lịch sử bị lụi tàn. Tên của cách mạng thậm chí còn được dùng trong dịch vụ vệ sinh-trong việc diệt trừ " bốn sinh vật có hại", qua đó cúng ruồi và chim sẽ trên bàn thờ cách mạng. Người Trung Quốc đương thời quá say mê cách mạng, quá tôn sùng cách mạng. Mỗi người và mọi người đều vừa là nạn nhân vừa là người truyền bá của từ này-cách mạng: "Cách mạng công xã Paris"; "Cách mạng Tháng Mười"; "Cách mạng năm 1911"; "Cách mạng dân chủ cũ"; "Cách mạng dân chủ mới"; "Cách mạng xã hội chủ nghĩa"; "Cách mạng cộng sản"; "Trường kỳ cách mạng dưới chuyên chính vô sản"; "Đại cách mạng văn hoá"; "Cải cách là một cuộc cách mạng sâu sắc." Người Trung Quốc đương thời gọi mỗi sự thay đổi trong xã hội hoặc là "cách mạng" hay là "phản cách mạng".(Ví dụ, phong trào phản kháng năm 1989 được sinh viên nói đến như là " Đại cách mạng ủng hộ dân chủ và chống độc tài"; còn chính quyền lại xem đấy là "cuộc bạo loạn phản cách mạng".) Dù bày tỏ lòng biết ơn hay bất mãn, mọi người đều mượn tên của cách mạng để tăng thêm sức mạnh chính nghĩa cho lời nói của mình. Sự vay mượn này thậm chí đạt đến mức độ là người ta sẵn sàng nói: "cách mạng gia đình", "cách mạng hôn nhân", "cách mạng bùng nỗ trong hồn người", cũng như "chủ nghĩa anh hùng cách mạng", "chủ nghĩa lãng mạn cách mạng", "chủ nghĩa hiện thực cách mạng", "văn học cách mạng", "vợ chồng cách mạng", "con cháu cách mạng", "người thừa kế cách mạng". Chính nghĩa cách mạng tự thân nó không cần đến điều kiện tiên quyết nào; trái lại, cách mạng là điều kiện tiên quyết cho chính nghĩa của bất kỳ sự gì khác. Bất kỳ ai hay bất kỳ chuyện gì,ta chỉ cần gán cho nó cái tên "cách mạng" là nó tự nhiên thành tiến bộ và thành chan chứa tình cảm chính đáng. Không ai nghi ngờ hay thậm chí hỏi: Thực ra cách mạng là gì? Hỏi cũng chả có lợi mà cũng chẳng cần phải hỏi. Tất cả những gì chúng ta làm và tất cả những gì chúng ta suy nghĩ đều là vì "tiến hành cách mạng đến cùng"!
Bất luận dù ta xét đến gốc từ nguyên và ý nghĩa hiện nay của từ hay mối liên quan về xã hội học, văn hoá, và tâm lý tập thể của sự áp dụng cụ thể, thực tế của từ này, từ cách mạng không thể nào dịch, như một từ hoàn toàn tương đương, ra tiếng Anh "revolution." Trong tiếng Anh, từ "revolution" có ba nghĩa rạch ròi:(1) quay tròn; (2) Sự thay đổi lớn, cơ bản trong xã hội; và (3) việc xử dụng bạo lực để tạo ra sự chuyển giao quyền lực chính trị. 1 Đáng chú ý là, trong tiếng Anh, từ "cách mạng" không hàm chứa nhiều liên tưởng về chính nghĩa thiêng liêng như từ cùng nghĩa trong tiếng Trung Quốc. Tuy nhiên, trong tiếng Trung Quốc, nghĩa xưa nguyên thuỷ của từ "cách mạng" là mệnh trời mà các hoàng đế vay mượn hay chấp nhận để mở đầu một triều đại mới; từ này mang một ý nghĩa thiêng liêng và là sự biện minh liên quan đến việc thực hiện ý trời. Trong thời hiện đại, dù trong "cuộc cách mạng chưa hoàn tất " của Tôn Trung Sơn hay trong " tiến hành cách mạng đến cùng" của Mao Trạch Đông, từ cách mạng gợi lên một ý nghĩa hết sức thiêng liêng và một chính nghĩa thái quá. Đặc biệt kể từ khi Đảng Cộng Sản lên nắm quyền, "cách mạng" đã trở nên một từ thiêng liêng, thuần tuý. Ví dụ, "cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa công bằng nhất, sâu sắc nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử loài người". "Cách mạng" có sự công bằng cố hữu, bất khả xâm phạm như "các quyền tự nhiên" trong lịch sử gần đây của Phương Tây. Khi chúng ta xem xét cấu tạo của từ này, chúng ta thấy rằng cách mạng là sự kết hợp động từ và túc từ. "Cách" là động từ, nghĩa là " thay đổi, loại trừ, hủy bỏ, tước đi." Còn từ "mạng," nghĩa là "mệnh trời, mệnh lệnh, sinh mạng." Hợp chung lại với nhau, "cách mạng" có nghĩa là "thay đổi xã hội" hay "cách cái mạng của ai đó." Chẳng hạn, "cách chức" ám chỉ đến " huỷ bỏ một chức vụ " hay "tước đi các quyền hành". Như thế, ngay cả khi ta chỉ xem xét các từ hợp thành không thôi, từ "cách mạng" trong tiếng Trung Quốc luôn có một giá trị về chính nghĩa không-thể -nào-bị -hoài - nghi và một giá trị về sự thiêng liêng không-thể -nào-bị -báng -bổ. Đây là một trong những từ được dùng thường xuyên nhất trong kho từ vựng của Đảng Cộng Sản.
Ở Trung Quốc sau năm 1949, khi được xét đến từ các góc độ về xã hội học, văn hoá, và tâm lý tập thể, từ "cách mạng" đã ám chỉ đến sự công bằng, đúng đắn, đức hạnh, vận may, và thiêng liêng. Nó cũng ám chỉ đến quyền lực cao nhất; sở hữu được cuộc cách mạng là đã giành được điều mà Tony Saich( trong Chương 12) gọi là "vốn biểu tượng." Thật không thể nào bày tỏ sự nghi ngờ hay chống đối lại "cách mạng" được. "Cách mạng" ám chỉ đến sự tận tụy, hy sinh, can đảm, không ngại hiểm nguy, lý tưởng, và cảm tình lãng mạn. Nó ám chỉ đến sự trường tồn và sức sống tràn trề. Tất cả những gì ta phải làm là chỉ cần nói "vì cách mạng ...." Nó luôn luôn chứng tỏ một ý chí sắt đá, một sự sẵn sàng "chết chín lần không tiếc". "Cách mạng" ám chỉ đến công bằng và lẽ phải của "đau khổ quá tất sinh ra căm thù sâu sắc", của đổ máu bạo lực, và của cuộc đấu tranh tàn nhẫn. "Cách mạng" thôi thúc căm thù và bần hàn. Nếu có cách mạng, tất phải có căm thù. Hễ ai nghèo nhất thì cũng cách mạng nhất. Vì thế Mao Trạch Đông gọi cuộc cách mạng do ông lãnh đạo là "một phong trào của những kẻ khốn cùng". "Cách mạng" ám chỉ đến tính chất không nhân nhượng, không thoả hiệp, không khoan dung, không hợp tác - công lý cực đoan không biểu lộ lòng vị tha; càng cực đoan, càng quá khích, càng chuyên chế thì lại càng cách mạng. Lòng trung thành của ta không thể nào dao động trong bất kỳ hoàn cảnh nào. "Cách mạng" ám chỉ rằng nổi dậy là chính đáng; rằng hành động cá nhân rất mờ nhạt trước vầng thái dương là hành động được thực hiện nhân danh cách mạng. Cho dù cách hành xử có tàn bạo đến đâu, hành động có mù quáng và thiếu cân nhắc đến đâu, phong trào có vô lý đến đâu -nếu nó có thể được gán cho tên "cách mạng", thì nó trở nên hợp lý và có thể được thực hiện một cách lạnh lùng.
Trong hệ thống giáo dục của Đảng Cộng Sản, nỗi ám ảnh về "cách mạng" đã khiến ta đánh mất lòng nhân đạo và lý trí của mình, đánh mất đi luơng tâm xã hội và lòng độ lượng của mình, đánh mất đi những tiêu chuẩn cơ bản nhất về phải và trái, và ngay cả đánh mất đi sự phân biệt giữa thiện và ác. "Cách mạng" đã khiến chúng ta phát điên. "Cách mạng" đã khiến chúng ta ngột ngạt. "Cách mạng" đã khiến chúng ta hư hỏng đến nỗi chúng ta mất đi khả năng cảm thấy tôn kính, sợ hãi, hay khiêm nhường. Phong trào phản đối năm 1989 lại một lần nữa đã chứng tỏ rằng "cách mạng" vẫn thắng thế. Nọc độc của "cách mạng" ngấm quá sâu trong lòng chúng ta, do đó chúng ta thường xuyên trở thành những vật hy sinh vô thức cho sự nghiệp công bằng cách mạng. Chúng ta vẫn còn say đắm với "cách mạng".
Cách Mạng Là Ngày Hội Của Những Người Bị Áp Bức Và Những Người Bị Bóc Lột
Mặc dù chúng ta đã trải qua sự tàn ác chưa từng có của "Phong trào chống hữu khuynh" và " Đại cách mạng văn hoá", chúng ta vẫn còn không thật sự ý thức về sự rùng rợn và tàn độc của "cách mạng". Dù mười năm cải cách đã làm dịu đi tính chất thiêng liêng của "cách mạng" và làm suy yếu nền văn hoá chính trị đã được xây dựng trên nền tảng của cuộc đấu tranh giai cấp, chúng ta vẫn còn tôn thờ "cách mạng" trong tận xương tuỷ. Chúng ta vẫn là "những người thừa kế cách mạng". Ngay khi chúng ta nhập vào một phong trào chính trị lớn, lòng say mê "cách mạng" của chúng ta chợt dâng cao; ngay khi lửa cách mạng được thắp lên, nó cháy bùng lên thành ngọn lửa cao ngất trời thiêu tan mọi thứ. Bất luận là phong trào thuộc về cực hữu hay cực tả, chuyên chế hay dân chủ, tiến bộ hay phản động, "cách mạng" đều thay thế tất cả. Từ trong bất kỳ khuynh hướng nào cũng đều có thể khích động lòng tôn thờ "cách mạng" cuồng nhiệt của chúng ta. Phong trào năm 1989 một lần nữa là cuộc "cách mạng vĩ đại" của quần chúng tiến bước tới dân chủ. Cho dù kết cục của nó có bi kịch, đẫm máu, nhiệt tình cách mạng vốn nằm im lìm trong gần mười năm lại một lần nữa trỗi dậy làm chủ chúng ta; cuối cùng, nó lại bộc lộ sinh lực và năng động của nó. Đây là một cơ hội làm lay động đất trời. Tất cả mọi người đều muốn lợi dụng cơ hội này để tạo nên kỳ tích, một thành tựu thật lớn để gây ấn tượng cho bao thế hệ đến sau.
Các sự kiện trong tháng Năm năm 1989 khiến ta nhớ đến lời tuyên bố nổi tiếng của Lenin: " Cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức và những người bị bóc lột". 2 Các đám đông kéo đến Quảng Trường Thiên An Môn để biểu tình và diễu hành thoạt đầu đi bộ đến; rồi sau đến từng nhóm đi xe đạp, xe ba bánh, và sau cùng đến bằng xe máy và ô tô. Tiếng máy xe nỗ ầm ỉ, cờ phướng phất phới, biểu ngữ giăng đầy, hết khẩu hiệu này đến khẩu hiệu khác đưọc đua nhau hô vang trời, đâu đâu cũng thấy dấu hiệu chữ "V"(tượng trưng cho "chiến thắng"), và những nụ cười nở rộng trên khuôn mặt mọi người-tất cả những yếu tố này đã tạo nên bầu không khí hân hoan như thể đây là một cuộc trình diễn nghệ thuật ngoài trời. Một biểu ngữ khổng lồ, dài hàng chục mét, căng ngang Viện Bảo Tàng Lịch Sử Cách Mạng, hiển hiện chỉ một từ "Thức Tỉnh". Những sinh viên tuyệt thực tiếp tục đổ vật xuống; các bác sĩ trong áo choàng trắng chạy lui chạy tới như con thoi, và tiếng còi hụ của các xe cứu thương rú lên liên hồi. Cảm giác bi kịch về cái chết cho chính nghĩa đang đến gần càng tăng thêm bầu không khí phấn kích như trong cuộc trình diễn của Quãng Trường. Các sự kiện liên hoan trên Quãng Trường, trong đó sinh viên đại học là các diễn viên chính, đã thu hút các nông dân, công nhân, binh lính, cán bộ, thuơng gia, nhà doanh nghiệp, trí thức, và có cả một vị giáo sư tóc bạc chống gậy đi lần bước qua những hàng người đang bày tỏ sự ủng hộ của họ dành cho sinh viên. Một phụ nữ về hưu luống tuổi, mặt in hằn những vết nhăn, ngồi trên chiếc xe ba bánh do con trai kéo. Bà cũng làm dấu hiệu chữ "V" tượng trưng cho chiến thắng. Những em học sinh trung học và tiểu học mang biểu ngữ và giơ cao nắm đấm ủng hộ các anh chị của mình. Những cháu bé học mẩu giáo, theo sự hướng dẫn của các cô giáo họ gọi là "các cô", vẫy những lá cờ ba cạnh rực rỡ, cũng hòa mình vào niềm vui chung. Rồi đến những vị tu hành đầu cạo trọc, mình mặc áo sòng, vừa tụng kinh vừa gõ " cá gỗ". Tất cả các nhân tố đa dạng này đan quyện vào nhau khiến cho người ta có cảm tưởng sai lầm rằng đây là một cuộc cách mạng sắp sửa thành công. Tất cả điều này làm đậm đà thêm bầu không khí hân hoan. Quãng trường tưng bừng như trong những ngày lễ Quốc Khánh hay trong ngày lễ Quốc Tế Lao Động hằng năm, lại càng giống như một quảng trường nơi các đám đông mừng vui đổ xô về ngay giữa khi một "cuộc cách mạng" đang diễn ra. Quả thật phong trào phản kháng năm 1989 đã làm cho mỗi người tham gia đều hân hoan nhảy múa trong niềm hoan hỷ phấn chấn. Khởi đầu vào ngày 1 tháng Mười năm 1949, khi Mao Trạch Đông dẫn đầu buổi lễ thành lập nhà nước, từ đấy hằng năm những lễ hội tương tự đều diễn ra ở Quảng Trường Thiên An Môn. Cách đây bốn mươi năm, Mao Trạch Đông, lòng đầy tự tin, tuyên bố cách mạng thành công; bốn mươi năm sau, những nhà lãnh đạo trẻ của sinh viên đại học và các trí thức nổi tiếng, lòng cũng ngập tràn tự tin, đang nôn nao chờ đợi thời khắc thành công của cuộc cách mạng "mới nhất". Chúng ta tưởng rằng chế độ độc tài của Đặng Tiểu Bình thật sự có thể đến hồi cáo chung ở ngay giữa lòng cuộc cách mạng long trời lở đất này; chính quyền của chế độ chuyên chế độc đảng thật sự có thể sụp đổ giữa "rừng" cánh tay đưa lên. Có bao nhiêu bậc anh hùng trong thời điểm đó mơ tưởng đến những vai trò họ muốn đóng sau khi họ đạt danh tiếng? Bầu không khí cách mạng hân hoan ấy khiến ta không thể nào nhìn thẳng vào hiện thực chính trị của Trung Quốc và vào sự ổn định của chế độ cai trị của Đảng Cộng Sản. Không chỉ đơn thuần là Đảng Cộng Sản nắm chặt trong tay toàn bộ guồng máy chính quyền cũng như nắm quân đội mấy triệu người; mà cũng đúng là, qua mười năm cải cách và tự do hoá về kinh tế, Đặng Tiểu Bình đã giành được sự ủng hộ của nhân dân. Chúng ta lại lầm tưởng sự bất mãn trong nhân dân về một số vấn đề liên quan đến cải cách là sự mất hy vọng hoàn toàn vào chế độ Đặng Tiểu Bình. Chúng ta nghiêng về ý kiến cho rằng, với sự ủng hộ của quần chúng, Triệu Tử Dương sẽ thay thế Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, chúng ta không thể nào đánh giá hợp lý những thành công và những thất bại của mười năm cải cách và tự do hoá về kinh tế. Chúng ta những nhà trí thức nổi tiếng, xuất phát từ quyền lợi riêng của mình (từ sự xuống giá của tri thức trước cơn thuỷ triều đang lên của hàng hoá đến mức sống tương đối sút kém của giới trí thức, vân vân), đã hưởng ứng sự hoài nghi trong nhân dân về các chiến dịch "bài trừ tham nhũng" và "chống tự do hoá về kinh tế" rồi phóng đại ý nghĩa của nó lên thành sự hoài nghi chung cho tất cả các chính sách quản lý của Đặng Tiểu Bình. Thực tế cho thấy, mặc dù nhân dân có bất mãn về một số vấn đề liên quan đến cải cách và mặc dù các chiến dịch "bài trừ tham nhũng" và "chống tự do hoá về kinh tế" đã hơi làm sút giảm uy tín của Đặng Tiểu Bình, nhưng nhân dân vẫn thừa nhận rằng trong thời của Đặng Tiểu Bình (ngược lại với thời đấu tranh giai cấp của Mao Trạch Đông) toàn bộ mọi nỗ lực đều được tập trung vào việc phát triễn kinh tế và nâng cao mức sống. Điều này đã tạo ra sự ủng hộ sâu rộng trong nhân dân và tạo ra một tính chính danh vững chắc và thực tế. Sự suy giảm lòng dân và tính chính danh thực tế do các chiến dịch "bài trừ tham nhũng" và "chống tự do hoá về kinh tế" chủ yếu giới hạn trong giới trí thức. Còn quần chúng chỉ đòi hỏi là họ làm ra tiền và mức sống của họ được tăng dần lên. Khi những yêu cầu này được đáp ứng, quần chúng không muốn hoặc từ bỏ hoàn toàn chính quyền hiện nay hay bác bỏ hoàn toàn các chính sách cai trị của Đặng Tiểu Bình. Khách quan mà nói, so với thời Mao Trạch Đông, những thay đổi ở Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình-sự tiến bộ của chính đảng cai trị và sự thức tỉnh trong ý thức của quần chúng - đã làm kinh ngạc thế giới. Những thay đổi và tiến bộ to tát mà mười năm cầm quyền của Đặng Tiểu Bình đã mang đến cho Trung Quốc lớn lao hơn những thay đổi và tiến bộ mà mười năm của Mao Trạch Đông có thể tạo ra. Chúng ta không thể, chỉ vì sự độc tài của Đặng Tiểu Bình, mà phủ nhận sạch trơn những thành quả của cải cách. Chế độ cai trị chuyên chế của Đảng, việc bắn chết dân, sự chuyên chính - tất cả những cái này đều là những cái ác cần phải sửa đổi, nhưng khi chúng ta đối diện với những thực tế của Trung Quốc, chúng ta thừa nhận rằng sự sửa đổi này phải từ từ, ôn hoà, và lâu dài. Chúng ta không chỉ phải dựa vào áp lực chính trị từ nhân dân mà thậm chí cũng phải dựa nhiều vào sự tự cải cách của Đảng Cộng Sản. Nếu áp lực chính trị trong nhân dân vượt quá khả năng thật sự của những kẻ đang nắm quyền để chịu đựng được áp lực này, phản ứng nó gây ra sẽ không đẩy nhanh sự tự cải cách của Đảng Cộng Sản và quá trình dân chủ hóa. Ngược lại, nó sẽ làm gián đoạn hay làm trì hoãn quá trình này. Bài học từ cuộc đổ máu của ngày 4 tháng Sáu rõ ràng đã nói lên điều này. Hơn nữa, sau ngày 4 tháng Sáu, Đặng Tiểu Bình đã nhanh chóng khôi phục lại trật tự xã hội. Đảng Cộng Sản một lần nữa giành lại sự kiểm soát chặc chẽ về tình thế. Điều này chứng tỏ quyền lực của Đặng Tiểu Bình không chỉ dựa vào trấn áp bạo lực và khủng bố đẫm máu. Quyền lực này cũng phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân tích luỹ được trong mười năm cải cách. Máu của ngày 4 tháng Sáu hoàn toàn không đảo ngược sự ủng hộ này trong nhân dân. Đặng Tiểu Bình chỉ cần tiếp tục kiên trì cải cách và phát triễn kinh tế. Nếu Đảng Cộng Sản kiên trì hoàn thiện chính mình, chế độ cai trị của Đặng Tiểu Bình chắc chắn không đổ nhào bất ngờ được. Hiện thực trước ngày 4 tháng Sáu, sự kiện về cuộc Thảm Sát Ngày Bốn Tháng Sáu, và thực tế về sự thực hiện cương quyết các cải cách sau ngày 4 tháng Sáu tất cả đều bộc lộ một sự thật mà chúng ta những người tham gia trong phong trào Ngày Bốn Tháng Sáu về mặt cảm tính không muốn chấp nhận nhưng về mặt trí thức chúng ta phải chấp nhận, đó là ở Trung Quốc ngày nay con đường ít tổn thất nhất để tiến tới dân chủ hóa và hiện đại hóa là con đường tự cải cách của Đảng Cộng Sản. Áp lực chính trị từ xã hội dân sự chỉ có thể đẩy mạnh một cách chừng mực sự tự cải cách loại này. Một chút bất cẩn thậm chí cũng có thể dẫn tới một bi kịch còn lớn hơn bi kịch của Ngày Bốn Tháng Sáu. Vì chúng ta đã nhìn thấy được hiện thực chính trị Trung Quốc đúng như thực trạng của nó hiện nay, chúng ta hãy quay trở lại phong trào phản kháng năm 1989. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng, do bị chính nghĩa cách mạng quyến rũ, chúng ta đã từ bỏ lý trí của chúng ta. Chúng ta không có cách nào biết được một cách khách quan là trong gần một triệu người tập trung ở Quảng Trường Thiên An Môn thời ấy có bao nhiêu người hoàn toàn bất mãn với các cải cách. Có bao nhiêu người biết rằng bốn mươi năm bi kịch ở Trung Quốc đã xảy ra là do những thái quá điên cuồng của chế độ chuyên chế? Có bao nhiêu người tham gia được hướng dẫn bởi một khái niệm dân chủ rõ ràng và chắc chắn? Ảo vọng được tạo ra từ sức sống của phong trào trong thời điểm đó đã khiến chúng ta không để tâm đến những hậu quả kinh khủng phát sinh từ sự leo thang liên tục của phong trào và cũng đã khiến lòng tin của chúng ta vào chính nghĩa dân chủ ngày càng trở nên xa cách với hiện thực chính trị và lòng tin ấy trở thành sự suy đoán vô lý rằng đân chủ sắp sửa ngự trị ở Trung Quốc.
Do được sinh ra từ mười năm cải cách, Phong Trào Ngày Bốn Tháng Sáu thấy mình trong một môi trường tự do nhất kể từ năm 1949, và môi trường này vừa được khích lệ bởi khuynh hướng dân chủ hoá toàn cầu vừa lại xem mình được bảo vệ bởi những yêu cầu về nhân quyền của các nước dân chủ Phương Tây; phong trào chống lại chế độ chuyên chế và kêu gọi dân chủ một cách chính nghĩa quá đáng. Bi kịch là ở chỗ chúng ta chỉ ý thức theo đuổi dân chủ, ý thức sự thật là dân chủ hoá là một khuynh hướng toàn cầu và là chiều hướng tương lai của Trung Quốc, ý thức đến công luận như được diễn tả qua các đám đông ồn ào ở Quảng Trường, ý thức rằng cả thế giới đồng lòng ủng hộ chúng ta như được chứng tỏ qua cảnh vô số các phóng viên nước ngoài xúm xít quanh chúng ta; chúng ta một lần nữa lại bị choáng ngợp bởi chính nghĩa của chủ nghĩa lý tưởng lãng mạn. Chúng ta quá chính nghĩa, quá táo bạo, và quá tự tin. Chúng ta quá say sưa. Vì thế, chúng ta quên hẳn một điều là hiện thực Trung Quốc thiếu những điều kiện cho sự hình thành bất ngờ một xã hội dân chủ. Chúng ta không ý thức rằng, mặc dù dân chủ hoá chính trị là điều cần phải có trước tiên cho công cuộc hiện đại hoá của Trung Quốc, nhưng nó hoàn toàn không phải là điều kiện trước tiên duy nhất. Nếu không có dân chủ hoá về chính trị, các cải cách hiện nay ở Trung Quốc không thể nào lâu dài và sâu sắc được. Nhưng nếu trọng tâm cải cách chỉ nghiêng quá nhiều sang tự do hoá về chính trị, thì không thể nào tạo ra sự thay đổi theo chiều hướng dẫn đến cải cách và hiện đại hoá. Ở Trung Quốc ngày này, dân chủ hoá không phải là liều thuốc tiên, vì Trung Quốc thiếu những điều kiện thích hợp. Không những chỉ đúng là do nắm chắc quyền lực chính trị, Đảng Cộng Sản không thể chấp nhận một hệ thống chính trị thực thi quyền hành đa đảng (hay đa nguyên về chính trị; mà còn đúng là quần chúng vẫn chưa hiểu đủ thấu đáo các quyền dân chủ nên không thể xử dụng các biện pháp pháp lý để bảo vệ mình trong cuộc đấu tranh cho quyền cá nhân. Qua sự thất bại của phong trào chúng ta càng thấy rõ một điều là chúng ta những sinh viên đại học và trí thức, những người được gọi là "các người lính dân chủ", và "các ngôi sao dân chủ" chỉ hiểu dân chủ trên giấy tờ và trên lý thuyết mà không có kiến thức "khả thi" về dân chủ hành động,thật sự. Chúng ta không hiểu cách thiết lập và thực thi dân chủ như một hệ thống chính trị hay như một tập hợp tổng quát các thủ tục pháp lý. Giáo sư Phương Lệ Chi, người được xem là Sakharov của Trung Quốc, đã từ bỏ một cơ hội rất lớn để xử dụng các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ nhân quyền cơ bản của ông ngay cả trước phong trào phản kháng năm 1989. Vụ ông bị công an ngăn cản không cho đến tham dự bữa tiệc do tổng thống Mỹ Bush mời đã trôi qua gần như hoàn toàn không ai hay biết. Lưu Tân Nhạn, người được mệnh danh là lương tâm của Trung Quốc, có những quan điểm chính trị khác với quan điểm chính trị của phong trào. Trong thời gian trước phong trào phản đối năm 1989, ông vẫn nhất mực bảo vệ chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội và ủng hộ khái niệm " Loại Trung Thành Thứ Hai".3 Vì lẽ ấy, khả năng xuất hiện một lực lượng đối lập nổi tiếng, từ tập thể các trí thức vẫn chưa học xong bài học vỡ lòng về dân chủ này, là cực kỳ thấp. Phong trào phản kháng năm 1989 được sinh ra từ những nhân tố tổng hợp này chỉ có thể là sự thể hiện tượng trưng cho một ý thức đã định hình. Dân chủ chúng ta theo đuổi trong suốt phong trào lại quá trống rỗng, quá cảm tính, và không vượt qua được giai đoạn phấn kích, lãng mạn của những khẩu hiệu sáo rỗng và chủ nghĩa lý tưởng của ý thức mới thành hình của chúng ta. Phần lớn những phượng tiện và cách thức chúng ta xử dụng để động viên quần chúng đều là những thứ đã được chính Đảng Cộng Sản dùng đến nhiều lần trước đây. Chúng ta theo đuổi sự thay đổi trên phạm vi lớn song lại sáo rỗng, giật gân và chúng ta không muốn đưa ra những yêu cầu từng điểm một, cụ thể, cũng như không sẵn sàng thật sự thực hiện tầm nhìn của mình. Điều này khẳng định là chúng ta vẫn còn không hiểu rằng dân chủ hoá không chỉ là một lý tưởng, không chỉ là một cảnh tượng hoành tráng; nó cũng là một quá trình thật sự, cụ thể, rất chi tiết, thậm chí đến cả tẻ nhạt để xây dựng và áp dụng những thủ tục dân chủ. Về nhiệm vụ cụ thể để thực sự tạo ra một xã hội được điều hành một cách dân chủ và hoạt động tốt, chúng ta cũng giống như Đảng Cộng Sản: cả hai ta đều phải bắt đầu từ đầu.
Những ngày vui cách mạng ấy, tuy làm lay động cả thế giới song do được nâng đỡ bởi chính nghĩa dân chủ lớn lao nhưng lại trống rỗng của chúng ta, đã dẫn chúng ta đi sai đường. Đối với chúng ta, những trí thức nổi tiếng lúc nào hai tiếng dân chủ cũng ở trên đầu môi, dân chủ hoá ra là một nỗ lực phức tạp hơn chúng ta tưởng.
HY SINH TRƯỚC BÀN THỜ CHÍNH NGHĨA
Theo đuổi những thay đổi ngoạn mục, đáng kinh ngạc tất dẫn đến sự khuấy động tình cảm quá khích. Đỉnh cao của sự sôi nổi tình cảm quá khích là sự từ bỏ tập thể sinh mệnh của mình cho các hành động anh hùng. Vì cuộc đua tài, vì dân chủ, vì tự do, chúng ta sẵn sàng tiến đến bàn thờ của chính nghĩa - rồi đến của hy sinh. Trong tháng Năm năm 1989, sinh viên tổ chức một đợt tuyệt thực tập thể với hơn một ngàn người tham dự. Phong trào không được hướng dẫn bởi lý tưởng của bất kỳ cá nhân nào mà bởi chủ nghĩa quá khích tình cảm. Bất kỳ ai quá khích đều trở thành đối tượng chú ý của mọi người. Khắp nơi -trong những lời tuyên bố của các sinh viên tuyệt thực và trong những lời tuyên bố của mỗi nhóm ủng hộ những người tuyệt thực, trong "rừng" biểu ngữ và trong các khẩu hiệu, trên những áo thun của các sinh viên tuyệt thực đeo khăn tang trắng trên đầu -ta có thể thấy những dòng chữ này: " Chúng ta làm nên lịch sử bằng sinh mệnh của mình"; "Chúng ta dùng chính dòng máu tươi của ta để mở đầu một kỷ nguyên mới cho nhân dân Trung Quốc"; " Vì thế hệ tương lai ta nhất định không tiếc gì cả"; "Máu rơi trên cổng thành của tổ quốc là lệ tưới cho đất màu mỡ"; "Thà chết còn hơn không có tự do". Tại những trung tâm chỉ huy của sinh viên ở Quảng Trường, họ liên tục phát thanh lời thề: "Đầu có thể rơi, máu có thể đổ, nhưng tự do dân chủ bất diệt". Nhạc điệu buồn bả của bài hát chính thức, "Quốc Tế Ca", của Đảng Cộng Sản Trung Quốc; bầu không khí tử vì đạo càng lúc càng nặng nề; và tinh thần hy sinh tất cả quyện lẫn vào nhau hoàn toàn. Từ viết thư bằng chính máu mình rồi đến viết di chúc, các sinh viên qua đó đo lòng quyết tâm của mình cho sự nghiệp bằng những cái chết được thêu dệt ra. Hình ảnh xả thân vì chính nghĩa này làm xúc động mọi người ở Quảng Trường. Tiếng hú còi sầu thảm của các xe cứu thương tưởng như xé trời xanh báo hiệu trước cái chết có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Các xe cứu thương, đèn đỏ loé sáng, chạy hối hả trên con đường " huyết mạch" do các sinh viên trong các đội trật tự công cộng (giăng tay nối nhau) tạo ra. Vẻ mặt của những người gần chết nằm trên cáng, cảnh các bác sĩ trong áo choàng trắng, cảnh các y tá la to và ra dấu cho đám đông "tránh ra" -hết thảy đều chứng minh tấn bi kịch của sự hy sinh sinh mệnh tập thể. Tình cảnh cảm động của mười hai sinh viên Trường Kịch Trung Ương nhịn uống nước vượt trội hơn cả tình cảnh của những người tuyệt thực, do thế, mười hai sinh viên này trở thành những thần tượng trên Quảng Trường. Qua mọi phương tiện tuyên truyền, và nhờ các đám đông chứng kiến, họ được nâng cao lên và rồi đưọc đặt lên trên bàn thờ của sự hy sinh vì chính nghĩa để nhấn mạnh đến cảnh chết cho chính nghĩa này. Hình ảnh đẹp nhất và xúc động nhất này của Trung Quốc ở cuối thế kỷ hai mươi đã thoả mãn mặc cảm chết cho chính nghĩa tiềm tàng quá lâu trong lòng người dân. Nếu như một vài sinh viên đòi tự thiêu không được thuyết phục từ bỏ hành động như thế, những ngọn đuốc sống chết cho chính nghĩa sẽ thật sự thắp sáng trên Quảng Trường, và lời dạy đạo đức thánh hiền từ xưa, " huỷ mình để giữ trọn khí tiết", ngày nay ắt vẫn còn có ý nghĩa.
Hành vi hiến thân cuồng tín này và tinh thần hy sinh này xuất phát từ ý nghĩa sứ mệnh cao cả mà xã hội ban cho sinh viên. Những sinh viên trẻ này, cảm nhận mình được toàn xã hội ủng hộ, cảm thấy mình là hiện thân của chính nghĩa. Hơn nữa, những người dân trong mọi tầng lớp xã hội cũng đều tôn kính họ như là hiện thân của chính nghĩa. Khi ý thức chính nghĩa này càng ngày càng trở nên cực đoan hơn, ngoại trừ chính quyền lòng dạ sắt đá, không có ai còn đủ tính táo để tự hỏi: kết cục của những biểu hiện cực đoan này rồi sẽ đi về đâu? Như thể toàn bộ xã hội đã khắng định, qua các hành động của họ, những sinh viên trẻ nên đứng ra gánh vác trên đôi vai tập thể của họ trách nhiệm thiên định, to tát là hãy cứu Trung Quốc ra khỏi nanh vuốt của bạo quyền. Ý nghĩa sứ mệnh bị phóng đại và ý nghĩa hùng tráng về cảnh mình đang-làm -nên lịch sử đã khiến sinh viên mất khả năng tự kiềm chế và tự biết mình. Họ không biết là đôi vai non của họ hoàn toàn không thể gánh vác một trách nhiệm nặng nề đến như thế. Bị lôi cuốn trước sức quyến rũ chính nghĩa càng lúc càng mạnh, các sinh viên, qua việc thế chấp sinh mệnh của mình, đã khai chiến một cuộc kháng cự liên tục leo thang và vô ích chống lại chính quyền. Tưởng chừng như chỉ qua hy sinh tính mạng của mình ta mới làm cho chính quyền động lòng, chỉ qua hành động xả thân ta mới có thể làm cho quần chúng thức tỉnh, và chỉ qua cái chết ta mới đạt được chính nghĩa hay mới có đủ tư cách để tượng trưng cho chính nghĩa. Cho nên không lạ gì là sau khi nghe một số người chỉ trích các sinh viên là đã quá hăng và quá dũng cảm khiến lý trí và phán xét bị lu mờ, Sài Linh,thủ lãnh cao nhất ở Quảng Trường và sau này đã trốn thoát đưọc ra nước ngoài, đáp lại với vẻ bình thường: " Tại Quảng Trường vào thời điểm đó dũng cảm đơn thuần là tiêu chuẩn". Điều đó có nghĩa là, hãy đừng màng đến hiện thực, hãy từ bỏ lý trí, chúng ta chỉ cần dũng cảm, chỉ cần sẵn sàng hy sinh quên mình; chúng ta là những hào kiệt của phong trào phản đối năm 1989. Điều đáng tiếc là, sau khi phong trào phản đối năm 1989 bị trấn áp bằng lưỡi lê và xe tăng, người ta đọc lướt qua danh sách những người lãnh đạo trong phong trào ngày Bốn tháng Sáu nhưng chẳng tìm thấy dù chỉ một Đàm Tự Đồng đương thời. Những ai đưọc tôn là anh hùng trong những khoảnh khắc hồi hộp nhất của phong trào cũng như những ai lãnh đạo xem mình là anh hùng, sau ngày Bốn tháng Sáu, đều lần lượt bị xử ở toà án của đạo lý và lẽ phải. Nhân dân không thể nào chịu đựng nổi sự thật là cả nước đã chờ đợi một bậc anh hùng chết cho chính nghĩa thế mà chẳng thấy xuất hiện một ai. Nhiệt tình của chúng ta đã hoài phí. Máu của chúng ta đã đổ ra vô ích.
Trong sự theo đuổi xả thân này và trong tâm lý tập thể của sự chờ đợi một đấng anh hùng hy sinh vì chính nghĩa, ta có thể thấy sự thành công to lớn về xã hội hoá Đảng Cộng Sản. Thấy được phong thái của những người nối gót theo những tiền nhân chết cho chính nghĩa, người ta không thể nào không nghĩ đến những đảng viên Đảng Cộng Sản, những người, vì sự ra đời của nước Trung Quốc mới, đã hoạt động bí mật trong những thời kỳ dài. Lời bào chữa được viết ra từ trong tù của Vương Đào Quân và Trần Tử Minh trong đó cả hai đều đề cập đến những hành động đáng khâm phục trong sự nghiệp chân chính mà thế hệ trước của Đảng Cộng Sản đã thực hiện trước ánh dao của đao phủ thủ có thể được coi là các tấm gương cho thế hệ sau này. Bắt đầu từ lúc chúng ta vào trường tiểu học, chúng ta đã nghe những câu chuyện về Lưu Hồ Lan và Đổng Tồn Thụy; 4 chúng ta đã biết lời tuyên bố của Mao Trạch Đông: " Sinh cao cả, tử vinh quang". Bài ca đội thiếu niên tiền phong có tên là " Luôn Luôn Sẵn Sàng". Sẵn sàng cho cái gì? Sẵn sàng dâng hiến đời mình cho Đảng Cộng Sản. Nói chung, do ở trường hay dạy là bầu máu nóng trong người nên sẵn sàng tuôn trào ra cho cách mạng nên chúng ta tin rằng ta chỉ cần cống hiến đời mình và dũng cảm hy sinh mình là đủ để mang lại lẽ phải và công bằng cho mọi ngưòi (và chính lẽ phải này có thể đảm bảo cho ta lưu danh muôn thuở). Chúng ta chỉ không xem xét rằng tất cả những gì mà máu tươi và cái chết này đã thiết lập là một chính quyền chuyên chế, dã man. Mao Trạch Đông, hô hào tinh thần hy sinh và kêu gọi mọi người " thứ nhất, không sợ gian khổ, thứ hai không sợ chết ", thì cũng chẳng khác gì hơn là một tay bạo chúa giết người. Chúng ta đã không nhận thức ra rằng chính nghĩa này- được hình thành chính từ sự dại dột cống hiến đời mình và hy sinh đời mình- đã khiến chúng ta tin rằng để thực hiện một cuộc cách mạng, tất cả những gì chúng ta cần là can đảm chứ không phải phán xét; tất cả những gì chúng ta cần là nhiệt tình chứ không phải lý trí; quá khích chứ không phải thoả hiệp; cảnh tượng đẹp đẽ huy hoàng chứ không phải lưu tâm đến những sự việc đời thường. Nhận xét của Sài Linh " can đảm là tiêu chuẩn" có thể được hiểu ở nghĩa rằng dũng cảm là chính nghĩa hay, chính xác hơn, đó là chính nghĩa tự cho mình đúng làm ta tin chúng ta có thể tiến tới dân chủ mà không hiểu những trách nhiệm kèm theo của dân chủ, chúng ta có thể đòi hỏi tự do mà không hiểu trách nhiệm của tự do. Hay nói cách khác, chính nghĩa ấy khiến chúng ta hiểu dân chủ là nhiệt tình dâng hiến đời mình và dũng cảm hy sinh; hiểu dân chủ là nhiệt tình cao ngất, là cảnh tượng hùng tráng của các đám đông lớn, là vô vàn những khẩu hiệu. Đơn thuần là chúng ta không quen biết rằng dân chủ là sự thiết kế, thực hiện, vận hành của một hệ thống hợp lý. Dân chủ có mặt trái của nó. Dân chủ hoàn toàn không lãng mạn như lý tưởng chúng ta tán dương; dân chủ là đời thường, thậm chí tầm thường. Có lẽ chỉ qua học phí trả bằng máu chúng ta mới có thể ý thức được rằng can đảm không phải là chính nghĩa và kháng cự không phải là dân chủ.
Chính Nghĩa Của Chuyện Ta Muốn làm Gì Thì Làm
Trong bốn mươi năm, chúng ta đã không có bất kỳ trải nghiệm chính trị dân chủ nào; mắt và tai chúng ta chỉ nghe thấy toàn quá nhiều những cuộc đấu tranh tàn ác và những mưu chước thâm độc của chính quyền chuyên chế. Ngay khi chúng ta bắt đầu cuộc cách mạng của mình, chúng ta trở nên cực kỳ tự phụ - như thể chúng ta đã quay trở lại thời kỳ Cách Mạng Văn Hoá là khi chúng ta cảm thấy mình là những người cách mạng nhất. Rồi ngay khi chúng ta gia nhập vào phong trào phản kháng năm 1989, chúng ta lại tự xem mình là những người dân chủ nhất. Dù sao, phải chăng chúng ta đã không tuyệt thực vì dân chủ, hết mình vì dân chủ và hy sinh cho dân chủ? Điều này làm cho chúng ta càng chắc chắn hơn rằng hành vi của chúng ta có chính nghĩa cao nhất. Tiếng nói của chúng ta trở thành chân lý duy nhất. Chúng ta cảm thấy như thể chúng ta sở hữu quyền lực tuyệt đối. Chân lý trở thành điều tuyệt đối đúng mà không chấp nhận sự chất vấn; chính nghĩa trở thành chuyện ta muốn làm gì thì làm; dân chủ trở thành đặc quyền; Quảng Trường trở thành một nơi kỳ diệu mà tại đấy chân lý được phán xét, quyết tâm được thử thách, tình cảm được tôi luyện, công lý được mở rộng, và các quyền con người được thực thi. Những kẻ không đến Quảng Trường hay chỉ trích Quảng Trường đều là lũ hèn nhát bất lương, chống dân chủ . Phong trào đã biến Quảng Trường thành một tiêu chuẩn để phán xét mọi người. "Tôi đã ở Quảng Trường một thời gian" và "Tôi đã từng đến Quảng Trường" trở thành những mật khẩu của ý thức dân chủ và của lương tâm xã hội.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Thế là bây giờ chúng ta có thể làm những gì chúng ta thích. Quản lý sinh viên thay thế trật tự xã hội của đảng chính trị. Các đội trật tự công cộng trở thành công an giao thông. Thẻ sinh viên trở thành thẻ đa dụng - với thẻ này, chúng ta có thể đi xe không cần mua vé, đi ăn chẳng cần trả tiền, chặn xe lại tuỳ hứng, lục xét hay tra hỏi bất kỳ người đi bộ nào có vẻ khả nghi, tuỳ tiện phung phí tiền bạc do các công dân đóng góp, bất cần vệ sinh, khạc nhổ lung tung, xả rác tuỳ thích, đại tiện và tiểu tiện khắp nơi, thậm chí cả trét phân người lên trên các cửa sổ của xe buýt công cộng và chả thèm quan tâm gì đến các thủ tục pháp lý. Chỉ cần con dấu của bộ chỉ huy Quảng Trường, chúng ta có thể tuyên bố mình đã kết hôn- đây được gọi là " đám cưới dân chủ ở Quảng Trường". Chúng ta có thể tự ý phá hoại tài sản công cộng, xì hơi các lốp xe buýt công cộng, rồi tuyên bố một cách tự tin rằng làm như thế để đập tan âm mưu của chính quyền. Quảng Trường Dân chủ thành Quảng Trường nơi ta muốn làm gì thì làm. Đó là một Quảng Trường mà mùi phân và nước tiểu bốc lên và lan ra nồng nặc; đó là Quảng Trường nơi rác chất cao như núi.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Thế là bây giờ chúng ta không thể thoả hiệp hay hợp tác mà có thể thích thì tạo bè phái,lập ra các tổ chức, tự phong vương, thi nhau đặt tên các nhóm của chúng ta là Liên Hiệp Tự Trị Tối Cao, Nhóm Tuyệt Thực, Nhóm Đối Thoại, Liên Hiệp Tối Cao Ngoại Vụ, Liên Minh Các Nhà Báo, Đội Quyết Tử, Đội Phi Hổ, Đội Quân Tây Lộ, Đội Quân Thiếu Nhi vân vân. Không ai chịu nhường ai,và không ai quản lý ai. Lời người xưa," ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn" đã trở thành "ai cũng có thể trở thành chính khách". Ai cũng có một triết lý chính trị riêng. Quảng Trường, nơi nhìn vào ta tưởng chừng các đám đông đoàn kết như một, thực ra là nơi có nhiều chia rẽ, nơi ai cũng xem mình là một chính quyền có chủ quyền riêng biệt. Cho dù nếu có đạt đến thoả thuận, song nếu muốn ta chẳng cần phải tôn trọng thoả thuận ấy. Cho dù ta có đưa tay lên để bỏ phiếu tán thành một quyết định về đường lối, ta có thể bác bỏ quyết định ấy ngay khi ta rời khỏi nơi họp và rồi, nhân danh chính nghĩa, cuói cùng ta lại thực hiện quyết định ấy. Giữa các trường và giữa các tổ chức,có những bức tường không thể vượt qua được. Tâm trạng xem mình là người thông thái nhất này làm mọi người trong phong trào cực kỳ tự phụ. Giấy phép ưu tiên đường (right-of-way) trở thành dấu ấn đặc quyền. Những ai có quyền phân phát giấy phép ưu tiên đường dường như có quyền quyết định ai có thể gia nhập cách mạng và ai có đủ tư cách tham gia dân chủ. Phong trào của chúng ta tập hợp được rất nhiều người và đã khơi dậy nhiệt tình rất cao, song chúng ta không thể nào có những quyết định hợp lý về đường lối; chúng ta thấy mình rơi vào tình trạng mơ hồ về quyết định đường lối. Giá không phải vì chính quyền thường xuyên có những quyết định sai lầm, từ đó ta có cơ hội đoàn kết lại với nhau, chúng ta có lẽ thật sự trở thành một đám đông mù quáng không có phương hướng.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Thế là bây giờ lòng chúng ta có thể chất đầy căm thù, như ta cầm chiếc áo sơ mi đẫm máu mà đấu tố Đảng Cộng Sản tàn ác; ta nghiến răng chửi mắng họ; ta chế diễu tính cách của kẻ khác; ta tham gia vào những cuộc đả kích cá nhân đầy ác ý. Chúng ta có thể nhiếc mắng ai đó là đồ ngu, ai đó là kẻ lùn tịt, ai đó là thứ ngốc nghếc. Chúng ta có thể tuyên bố xử bắn ai đó, luộc ai đó trong vạc dầu, chôn sống ai đó, bắt ai đó phải tự tử, bắt ai đó phải trở về nhà với gia đình; chúng ta còn nói xấu những ai không thuộc giống nòi của chúng ta. Thái độ của chúng ta là thô lỗ và vô lý, thậm chí đến mức chúng ta phải choảng lẫn nhau; chúng ta có thể mượn tên của chính nghĩa để bày tỏ những phàn nàn cá nhân không đáng; chúng ta có thể không thích chấp nhận bất kỳ những ai đứng ra làm trung gian bất kể địa vị hay cá nhân của họ, chúng ta có thể theo một đường lối cứng rắn không thoả hiệp, không khoan nhượng, và không hợp tác - quá khích mù quáng, hận thù mù quáng- đến nỗi phong trào phản kháng đã leo thang từ những yêu cầu sửa sai cụ thể đến sự hận thù muốn lật đổ chính quyền và tống cổ Đặng Tiểu Bình đi. Đồng thời chúng ta tự đẩy mình vào một tình thế không có lối thoát, chúng ta buộc chính quyền, mà lập trường ban đầu của họ là đối thoại và thoả hiệp, vào hoàn cảnh chẳng đặng đừng là dùng quân đội đàn áp phong trào ôn hoà. Cùng với chính quyền, mà chịu trách nhiệm về tội ác bắn giết nhân dân, phải chăng chúng ta, "những chiến sĩ dân chủ ", những người rất tự tin về chính nghĩa của mình, những người góp phần tạo ra bi kịch đẫm máu cuối cùng ấy lại chẳng chịu trách nhiệm đạo đức nào hay sao? Căm thù, quá khích, không khoan nhượng -đây chính xác là những phẩm chất cách mạng Mao Trạch Đông đã kêu gọi một cách rất tự tin; đây chính xác là nơi tập trung toàn bộ cốt lõi của văn hoá chính trị đấu tranh giai cấp. Cách mạng phải được tiến hành một cách không dao động đến cùng. Bất kỳ ai ủng hộ triệt tiêu căm thù hay muốn đạt đến thoả thuận thông qua thoả hiệp và nhân nhượng là kẻ hèn nhát, là tên phản bội, hay là tên cướp có học vị. Kết quả là lời thề của chúng ta quyết tử để bảo vệ Thiên An Môn -quyết tâm của chúng ta để sống hay chết với Quảng Trường -trở thành sự thương lượng, thoả hiệp, và rút lui ôn hoà lần cuối cùng khi mối đe doạ của tử thần thật sự đến.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Bây giờ, chúng ta nói láo thản nhiên, tung tin đồn ngay giữa thanh thiên bạch nhật; gặp những ai quan tâm liền khẳng định việc nói láo của mình là đúng; tuyên bố một cách vô trách nhiệm: "Đặng Tiểu Bình đã chết"; "Lý Bằng đã bỏ chạy"; " Dương Thượng Côn bị thương";"Triệu Tử Dương đã trở lại"; "Vạn Lý đã lập chính phủ mới ở Canada"; "Mười hai cán bộ của Hội Đồng Nhà Nước đã tuyên bố rút lui ra khỏi chính phủ hiện nay"; "Quảng Đông và các khu tự trị thiểu số đã tuyên bố Độc Lập"; "Binh đoàn Hai Mươi Bảy và Ba Mươi Tám bắt đầu giao chiến"; vân vân. Quảng Trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong trào dân chủ, trở thành nơi hội tụ và phát tán các lời nói láo và các tin đồn. Lời nói láo càng láo thì càng được nói đến, còn tin đồn có nguồn gốc càng không chắc chắn thì bất ngờ trở thành lực đẩy của phong trào. Chúng làm cho những hành động quá khích dường như hợp lý hơn, nâng cao hy vọng chiến thắng hão huyền của nhân dân, và khiến chúng ta không tài nào biết được chuyện gì thực sự đang diễn ra ở Trung Quốc. Sau ngày 4 tháng Sáu, các "chiến sĩ dân chủ" chạy thoát ra nước ngoài đã cố ý bóp méo các sự việc để phóng đại lên sự tàn bạo và độc ác của Đảng Cộng Sản và qua đó tạo cho mình hình ảnh anh hùng của những con người đã vượt thoát ra được cơn tắm máu; họ đã làm hoen ố bề mặt nhuộm máu của Quảng Trường Thiên An Môn và lừa dối dư luận quốc tế. Dòng thời gian thăng trầm dần dần đã trả sân khấu ban đầu này lại cho lịch sử, và sau khi nhân dân có thể hiểu đúng phong trào phản đối năm 1989, những hậu quả tàn nhẫn cùng bi kịch do các lời nói láo và các tin đồn năm xưa tạo ra sẽ tan dần đi.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Chúng ta có thể coi trọng chỉ tự do ngôn luận của riêng mình thôi, trong khi đó tước đi ở những người khác quyền tự do ngôn luận này. Chúng ta chẳng khác gì Mao Trạch Đông trước đây, không cho phép tồn tại bất kỳ ý kiến nào khác với mình. Còn về các hành động của chúng ta, chúng ta chỉ có thể hình dung ra sự ủng hộ của những kẻ khác dành cho cho các hành động của chúng ta thôi; ngoài ra không ai có thể được chỉ trích các hành động của chúng ta. Về điểm này, giống công an Đảng Cộng Sản, chúng ta buộc các nhà báo không được chụp những hình nào không có lợi cho chúng ta hay có thể tổn hại đến hình ảnh của chúng ta. Khi các nhà báo la to lên "tự do báo chí" và vẫn chụp hình, chúng ta liền giật phăng một cách thô bạo các máy ảnh từ tay các nhà báo, rồi mở máy ảnh rút phim đưa ra ngoài ánh sáng. Chúng ta đôi lúc còn đập tan tành các dụng cụ chụp hình của các nhà báo. Chúng ta chỉ nghĩ đến các quyền và sự an toàn riêng của mình. Bất kỳ hành vi nào đe dọa đến sự an toàn và các quyền của chúng ta, cho dù hành vi ấy có chính đáng hay hợp pháp, chúng ta đều quyết tâm chấm dứt nó. Để chính quyền không thể lợi dụng một hành động phá hoại tài sản công cộng như là cái cớ để đè bẹp phong trào, chúng ta đã áp giải ba người đã làm bẩn bức chân dung của Mao Trạch Đông treo tại Quảng Trường đến sở công an, kết quả là họ bị Đảng Cộng Sản kết án tù 20 năm, 18 năm, và 15 năm. Phải chăng họ đã không thực thi chính các quyền của họ? Phải chăng họ thật sự đáng ở tù?
Thậm chí điều bi kịch hơn cả là chính nghĩa tự cho mình đúng của phong trào phản kháng năm 1989 đã gần như là mối đe dọa cho mọi người. Những người có ý khiến khác biệt đều trở nên im lặng dưới áp lực của chính nghĩa tự cho mình đúng này. Những ai không dám nói khác và không muốn tham gia vào phong trào cuối cùng cũng xuống đường vì họ sợ bị xem là tên hèn nhát hay kẻ phá bỉnh. Cuộc tuyệt thực biến các sinh viên đại học thành các vị thánh cách mạng không ai có thể chỉ trích được. Ở mức độ nào đó, ta có thể nói rằng cuộc tuyệt thực của sinh viên không chỉ đặt cho chính quyền vào một tình thế khó xử; mà cũng đặt cho xã hội một vấn đề khó xử. Khi người ta nhìn thấy cảnh các sinh viên trẻ trả giá bằng chính sinh mệnh của mình để chống lại chính quyền chuyên chế, thử hỏi có ai đành lòng nói "không"? Những ai có thể nói "không", hay những ai mà cõi lòng họ không bị xúc động trước quyết tâm như thế, đều không có lương tâm. Những ai nghi ngờ tấm lòng thành thật tuyệt đối của sinh viên đều là kẻ đồng loã với chính quyền. Cuộc tuyệt thực đã khiến cho đa số mọi người tạm thời bỏ quên lý trí và đã khiến một thiểu số rất nhỏ tuy vẫn còn giữ được lý trí nhưng lại trở nên im lặng. Ngay cả đến một vài người còn tỉnh táo cũng băn khoăn phải chăng sự bình thản của mình biết đâu là biểu hiện của sự thiếu lòng trắc ẩn cơ bản.
Dân chủ được ca tụng trong suốt phong trào phản kháng năm 1989 chỉ có một lượng rất nhỏ chính nghĩa hợp lý, thực tế. Trong suốt phong trào, chúng ta đã điên cuồng theo đuổi chính nghĩa trừu tượng, mù quáng mà bỏ rơi chính nghĩa hợp lý, đích thực.
Uớc Gì Ngày Bốn Tháng Sáu Là "Chính Nghĩa" Mù Quáng Cuối Cùng
Thất bại của phong trào phản kháng năm 1989 không chỉ ở đổ máu, ở những cái chết sau đó, và ở đợt trấn áp dữ dội phong trào quần chúng tự phát, mức độ lớn; thất bại cũng ở sự thù nghịch mãnh liệt phát sinh từ sự leo thang liên tục của phong trào. Sự leo thang này dẫn tới việc trì hoãn quá trình cải cách và làm suy yếu lòng tin tưởng của nhân dân vào chế độ Đặng Tiểu Bình. Đồng thời nó cũng làm gián đoạn quá trình mà qua đó Đảng cai trị dần dần dân chủ hoá và cải cách chính mình, vì thế Trung Quốc phải chịu sự đảo ngược toàn bộ sự tự cải cách của Đảng. Bầu không khí thư giãn vào đầu năm 1989 không còn nữa, thay thế vào đó là bầu không khí thù nghịch, căng thẳng, và khủng bố. Sau ngày 4 tháng Sáu, năm 1989, việc tái tổ chức kiểm soát chính trị đã khiến nền kinh tế trì trệ. Khái niệm đấu tranh giai cấp được đề cao trở lại đã làm cho cải cách chính trị trở thành một vấn đề rất nhạy cảm. Tử khí dưới thời Mao Trạch Đông lại bay lơ lửng trên mặt đất bao la của Trung Quốc. Mối căm thù chôn vùi trong lòng của quần chúng từ sự kiện đẫm máu này sẽ bộc phát ra ngay khi cơ hội đến. Mặc dù Đặng Tiểu Bình vẫn duy trì đường lối cải cách và Chuyến Công Du Miền Nam của ông đã khích thích sự tăng trưởng trong phát triến kinh tế, nhưng sự kiểm soát chính trị chặc chẽ theo sau các sự kiện ngày 4 tháng Sáu đã dẫn đến sự phát triễn không bình thường trong quá trình hiện đại hoá Trung Quốc, và việc Triệu Tử Dương bị tước quyền bảo đảm rằng cuộc đấu đá quyền lực theo sau cái chết của Đặng Tiểu Bình sẽ rất nguy hiểm. Do Triệu Tử Dương, một người có lương tâm mạnh mẽ, bị tước quyền, cuộc khủng hoảng đã xuất hiện xung quanh cuộc chuyển giao quyền lực mà đáng lẽ ra nên êm thắm và ổn định. Tâm lý "tận cùng thế kỷ" hơi hoang tưởng đã khiến người dân chỉ nghĩ đến chuyện thu vén càng thật nhiều (từ cuộc cải cách vẫn đang còn) trước khi tai ương giáng xuống. Quần chúng ý thức sâu sắc rằng cơ may cuối cùng gắn liền với sức khoẻ của Đặng Tiểu Bình. Nếu cơ may này bị bỏ lỡ, họ sẽ trở thành những con tốt hy sinh vô nghĩa trong thế giới hỗn loạn sẽ theo sau cái chết của Đặng Tiểu Bình. Cái sợ hoang tưởng ám ảnh "tận cùng thế kỷ" này không thể biến mất đơn thuần chỉ qua phát triễn kinh tế. Đồng thời, các nỗi sợ về chính trị của chính Đảng cầm quyền không thể biến mất và mối căm thù của quần chúng cũng không thể dịu đi qua ổn định xã hội hay qua kinh tế phồn thịnh hay nâng cao mức sống. Các nỗi sợ về chính trị của Đảng cầm quyền và cái sợ hoang tưởng "tận cùng thế kỷ" của quần chúng đã làm cho viễn cảnh Trung Quốc có thể tiến bước êm thắm và không ngừng tới một xã hội dân chủ và hiện đại hoá là chuyện rất không tưởng. Nếu Đảng cầm quyền và toàn thể nhân dân không chấm dứt sự căm thù lẫn nhau của họ ngay từ bây giờ để đạt đến hợp tác xã hội,5 lòng căm thù và nỗi sợ hãi của hai bên sẽ không thể nào tan biến được. Khi ngày mất của Đặng Tiểu Bình cận kề, những căm thù và sợ hãi này sẽ trở nên càng ngày càng không đội trời chung hơn, từ đấy đưa đến những biến động xã hội nhanh hơn thay vì chậm hơn.
Vì vậy, chấm dứt thù địch, từ bỏ sợ hãi, đạt đến hợp tác xã hội, và đưa Trung Quốc tiến êm thắm và không ngừng đến xã hội hiện đại, dân chủ không thể chỉ phụ thuộc vào việc Đảng cầm quyền quyết tâm thực hiện tự cải cách và thay đổi hình ảnh của Đảng trong lòng dân; thực hiện những mục tiêu này cũng còn phụ thuộc vào hợp tác của các nhóm đối lập trong nhân dân. Nhờ sự hợp tác này, tự cải cách có thể dần dần thành công. Ổn định hiện nay ở Trung Quốc có lẽ là cơ hộ cuối cùng của chúng ta. Đảng cầm quyền phải thừa nhận rằng (1) dân chủ hoá chính trị của chính Đảng không chỉ là chiều hướng được lương tâm nhân dân tán đồng mà đó cũng là khuynh hướng chung của các sự kiện trên thế giới và rằng (2) tốt nhất là Đảng nên tự ý thức mà thay đổi mình còn hơn là buộc phải thay đổi do tác động từ các yếu tố bên ngoài. Người duy nhất có thể cứu Đảng Cộng Sản là chính Đảng Cộng Sản. Nếu Đảng dần dần, từng bước một, cải cách mình và tiến đến dân chủ hoá, Đảng Cộng Sản sẽ tồn tại. Nhưng nếu Đảng tiếp tục duy trì chế độ chuyên chế độc đảng, Đảng Cộng Sản sẽ lụi tàn. Đồng thời, các nhóm đối lập trong nhân dân không nên đẩy Đảng ra khỏi vị trí cầm quyền; ngược lại, trong khi Đảng Cộng Sản đang thực hiện tự cải cách, những nhóm này nên khuyến khích những thay đổi dưới sự cầm quyền của Đảng. Đối với Đảng cầm quyền và đối với quần chúng, đây là sự chọn lựa chín chắn nhất trong giai đoạn đổi thay toàn diện và mau lẹ.
Trong suốt quá trình này, Đảng cầm quyền nên nghiêm túc cân nhắc việc đi lá bài chính trị -lá bài Ngày Bốn Tháng Sáu. Không ai có thể né tránh mãi sự đánh giá lại vụ Thảm Sát Ngày Bốn Tháng Sáu. Lá bài Ngày Bốn Tháng Sáu phải được đưa ra. Vấn đề rất quan trọng là -lá bài này được đi như như thế nào? Và khi nào ta nên trình bài ra? Như một sửa sai bất ngờ sau cái chết của Đặng Tiểu Bình? Hay ngay từ bây giờ Đảng cầm quyền từ từ giảm bớt niềm bất mãn và oán hận tích tụ trong lòng dân về vụ Ngày Bốn Tháng Sáu? Nên chăng cho tiến hành điều tra khẩn cấp vụ đổ máu này để truy cứu trách nhiệm hình sự? Hay nên chăng cứ hoãn cuộc điều tra lại? Tôi cho rằng chọn lựa khôn ngoan nhất là cách sau cùng. Không cần thiết phải có các bình luận xã hội, không cần tổ chức họp hành to tát, và không cần công bố trước dân chúng. Tất cả những gì cần làm là hãy bồi thường kín đáo cho thân nhân của các nạn nhân Ngày Bốn Tháng Sáu; thả tất cả những tù nhân chính trị Ngày Bốn Tháng Sáu; hồi phục các chức vụ cũ cho những người bị đối xử bất công vì Ngày Bốn Tháng Sáu; dần dần thuyên chuyển công tác rồi xuống chức những kẻ đã ngoi lên quyền lực từ máu của Ngày Bốn Tháng Sáu; và cho phép những người trốn ra nước ngoài vì Ngày Bốn Tháng Sáu an toàn trở về nước. Tất cả điều này, tôi tin, là phần cần thiết cho sự thay đổi hình ảnh của Đảng cầm quyền, là phần của sự dân chủ hoá của Đảng, là phần của những gì sẽ thu phục được lòng dân. Nếu Đảng cầm quyền không bắt đầu ngay từ bây giờ, nếu sau cái chết của Đặng Tiểu Bình có nhà chính trị nào đấy dựa vào sự sửa sai bất ngờ về những sai lầm Ngày Bốn Tháng Sáu để tranh đoạt quyền lực,thì tai hoạ không chỉ có thể sẽ xảy đến cho nhà chính trị này, mà còn cho cả Trung Quốc. Những hậu quả bùng phát từ sự sửa sai bất ngờ nằm ở ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ ai. Cơn lũ thù hận sẽ dìm chết tất cả những kẻ nào muốn dự phần trong bữa tiệc máu Ngày Bốn Tháng Sáu. Ở Trung Quốc tương lai, nói cách khác, những ai ra trận với ánh đao gươm sáng lạnh, vì muốn dẹp tan bao bất bình oan trái của Ngày Bốn Tháng Sáu, biết đâu có thể gây ra một cơn đổ máu khác còn lớn hơn, còn tàn nhẫn hơn nhiều. Biết đâu lại là một lần tắm máu.
Ở Trung Quốc ngày nay, năm năm sau vụ đổ máu Ngày Bốn Tháng Sáu.., trong một Trung Quốc đang đầy lo sợ thời điểm tận cùng của thế kỷ- có nhiều việc cần phải được hòa giải. Tôi không biết liệu chúng ta những sinh viên đại học và trí thức, những người đã nhập vai những bậc thánh cách mạng và vai các ngôi sao dân chủ trong hai tháng trời có thể đánh giá lại một cách hợp lý, bình tâm, công bằng và thực tế những gì chúng ta đã làm và đã suy nghĩ trong năm 1989; tôi không biết liệu chúng ta có thể đối diện với hiện thực Trung Quốc đang có nhiều cuộc khủng hoảng xuất hiện từ khắp mọi phía mà thấy lòng mình còn đủ can đảm để theo đuổi kiên trì kế hoạch khả thi cho cải cách lâu dài bắt đầu từ những chi tiết nhỏ nhất. Nếu được như vậy, thì cho dù sức ta có tàn kiệt, máu của Ngày Bốn Tháng Sáu sẽ không chảy đi hoài phí- máu vẫn còn đặc hơn nước lã. Còn không được như vậy, thì cao nhất máu của Ngày Bốn Tháng Sáu sẽ có thể nuôi béo những kẻ hút máu chẳng còn biết xấu hổ.
Uớc gì Ngày Bốn Tháng Sáu là chính quyền cuối cùng của Trung Quốc trong đó mỗi người đều tự xem mình là chính khách.
Uớc gì Ngày Bốn Tháng Sáu là cảnh tượng hoành tráng của chính nghĩa mù quáng tự cho mình đúng cuối cùng của Trung Quốc.
Nguồn: Trích từ sách "Popular Protest and Political Culture in Modern China, Second Edition" edited by Jeffrey N. Wasserstrom anf Elizabeth J. Perry
Bài viết được lưu hành trên mạng ở địa chỉ: http://tsquare.tv/links/LiuXiaobo.html
1. Những cắt nghĩa rất tường tận nhưng rất khác về mặt cấu trúc đối với sự hiểu biết của Tây Phương về từ "cách mạng", và những cách hiểu này đã thay đổi theo thời gian. Xem Raymond Williams, Keywords: A Vocabulary of Culture and Society (Oxford: Oxford University Press, 1983), revised edition, pp. 270-274; Mona Ozouf, "Revolution," in François Furet and Mona Ozouf, eds., A Critical Dictionary of the French Revolution (Cambridge: Harvard University Press, 1989), pp. 806-817; and John Dunn, "Revolution," in Terrence Ball et al., eds., Political Innovation and Conceptual Change (Cambridge: Cambridge University Press, 1989), pp. 333-351. Ed.
2. Stephan T. Possony, ed., The Lenin Reader (Chicago: Henry Regnery, 1966), p. 349. Ed.
3. Xem Jonathan D. Spence, The Search for Modern China (New York: Norton, 1990), p. 726, mô tả ngắn gọn ý niệm về sự trung thành của Lưu Tân Nhạn. Đặc điểm chính của loại trung thành này là niềm tin rằng những người ủng hộ Đảng có thể nên chỉ trích những hành động sai trái cụ thể của các quan chức mà họ không bị xem là không trung thành; những sự chỉ trích như vậy, nhà báo này cho rằng, thực sự củng cố Đảng Cộng Sản Trung Quốc thay vì làm Đảng suy yếu.
4. Lưu Hồ Lan là em bé gái 14 tuổi. Quốc Dân Đảng hành hình em trước năm 1949. Em chết khá anh hùng. Mao Trạch Đông nói về em, " Sống vĩ đại ,chết vinh quang", sau đó kêu gọi cả nước học tập tinh thần cách mạng của em. Đổng Tồn Thuỵ là một người lính trẻ trong Quân Đội Giải Phóng. Tronh cuộc chiến tranh Giải Phóng, anh dùng thân mình làm khung đỡ cho chất nỗ trong một vụ tấn công vào nơi đóng quân Quốc Dân Đảng. Anh phá được lô cốt của quân đội Quốc Dân Đảng nhưng đã hy sinh. Sau năm 1949, có bộ phim tuyên dương chủ nghĩa anh hùng cách mạng Đổng Tồn Thuỵ.
5.Người kêu gọi hợp tác xã hội là người bạn tôi tên Chu Đạo. Năm 1989, khi chúng tôi cùng phác thảo " Tuyên Ngôn Tuyệt Thực Ngày Hai Tháng Sáu", ông chỉ ra rằng một trong những điểm chính của tuyên ngôn là lời kêu gọi chấm dứt thù địch và kêu gọi hoàn toàn ủng hộ sự hợp tác xã hội.
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Ở Trung Quốc cộng sản, không có từ nào thiêng liêng hơn hay phong phú hơn về sự phẫn nộ chính đáng và sức mạnh đạo đức cho bằng từ "cách mạng". Nhân danh cách mạng, chế độ chuyên chế độc đảng và nền độc tài cá nhân được xác lập. Thường xuyên, nhân danh cách mạng, các phong trào chính trị vô nhân đạo được phát động. Nhân danh cách mạng, cá nhân bị tước đi tất cả các quyền họ đáng lẽ được hưởng. Nhân danh cách mạng, nền kinh tế bị huỷ diệt và nền văn hoá lịch sử bị lụi tàn. Tên của cách mạng thậm chí còn được dùng trong dịch vụ vệ sinh-trong việc diệt trừ " bốn sinh vật có hại", qua đó cúng ruồi và chim sẽ trên bàn thờ cách mạng. Người Trung Quốc đương thời quá say mê cách mạng, quá tôn sùng cách mạng. Mỗi người và mọi người đều vừa là nạn nhân vừa là người truyền bá của từ này-cách mạng: "Cách mạng công xã Paris"; "Cách mạng Tháng Mười"; "Cách mạng năm 1911"; "Cách mạng dân chủ cũ"; "Cách mạng dân chủ mới"; "Cách mạng xã hội chủ nghĩa"; "Cách mạng cộng sản"; "Trường kỳ cách mạng dưới chuyên chính vô sản"; "Đại cách mạng văn hoá"; "Cải cách là một cuộc cách mạng sâu sắc." Người Trung Quốc đương thời gọi mỗi sự thay đổi trong xã hội hoặc là "cách mạng" hay là "phản cách mạng".(Ví dụ, phong trào phản kháng năm 1989 được sinh viên nói đến như là " Đại cách mạng ủng hộ dân chủ và chống độc tài"; còn chính quyền lại xem đấy là "cuộc bạo loạn phản cách mạng".) Dù bày tỏ lòng biết ơn hay bất mãn, mọi người đều mượn tên của cách mạng để tăng thêm sức mạnh chính nghĩa cho lời nói của mình. Sự vay mượn này thậm chí đạt đến mức độ là người ta sẵn sàng nói: "cách mạng gia đình", "cách mạng hôn nhân", "cách mạng bùng nỗ trong hồn người", cũng như "chủ nghĩa anh hùng cách mạng", "chủ nghĩa lãng mạn cách mạng", "chủ nghĩa hiện thực cách mạng", "văn học cách mạng", "vợ chồng cách mạng", "con cháu cách mạng", "người thừa kế cách mạng". Chính nghĩa cách mạng tự thân nó không cần đến điều kiện tiên quyết nào; trái lại, cách mạng là điều kiện tiên quyết cho chính nghĩa của bất kỳ sự gì khác. Bất kỳ ai hay bất kỳ chuyện gì,ta chỉ cần gán cho nó cái tên "cách mạng" là nó tự nhiên thành tiến bộ và thành chan chứa tình cảm chính đáng. Không ai nghi ngờ hay thậm chí hỏi: Thực ra cách mạng là gì? Hỏi cũng chả có lợi mà cũng chẳng cần phải hỏi. Tất cả những gì chúng ta làm và tất cả những gì chúng ta suy nghĩ đều là vì "tiến hành cách mạng đến cùng"!
Bất luận dù ta xét đến gốc từ nguyên và ý nghĩa hiện nay của từ hay mối liên quan về xã hội học, văn hoá, và tâm lý tập thể của sự áp dụng cụ thể, thực tế của từ này, từ cách mạng không thể nào dịch, như một từ hoàn toàn tương đương, ra tiếng Anh "revolution." Trong tiếng Anh, từ "revolution" có ba nghĩa rạch ròi:(1) quay tròn; (2) Sự thay đổi lớn, cơ bản trong xã hội; và (3) việc xử dụng bạo lực để tạo ra sự chuyển giao quyền lực chính trị. 1 Đáng chú ý là, trong tiếng Anh, từ "cách mạng" không hàm chứa nhiều liên tưởng về chính nghĩa thiêng liêng như từ cùng nghĩa trong tiếng Trung Quốc. Tuy nhiên, trong tiếng Trung Quốc, nghĩa xưa nguyên thuỷ của từ "cách mạng" là mệnh trời mà các hoàng đế vay mượn hay chấp nhận để mở đầu một triều đại mới; từ này mang một ý nghĩa thiêng liêng và là sự biện minh liên quan đến việc thực hiện ý trời. Trong thời hiện đại, dù trong "cuộc cách mạng chưa hoàn tất " của Tôn Trung Sơn hay trong " tiến hành cách mạng đến cùng" của Mao Trạch Đông, từ cách mạng gợi lên một ý nghĩa hết sức thiêng liêng và một chính nghĩa thái quá. Đặc biệt kể từ khi Đảng Cộng Sản lên nắm quyền, "cách mạng" đã trở nên một từ thiêng liêng, thuần tuý. Ví dụ, "cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa công bằng nhất, sâu sắc nhất, vĩ đại nhất trong lịch sử loài người". "Cách mạng" có sự công bằng cố hữu, bất khả xâm phạm như "các quyền tự nhiên" trong lịch sử gần đây của Phương Tây. Khi chúng ta xem xét cấu tạo của từ này, chúng ta thấy rằng cách mạng là sự kết hợp động từ và túc từ. "Cách" là động từ, nghĩa là " thay đổi, loại trừ, hủy bỏ, tước đi." Còn từ "mạng," nghĩa là "mệnh trời, mệnh lệnh, sinh mạng." Hợp chung lại với nhau, "cách mạng" có nghĩa là "thay đổi xã hội" hay "cách cái mạng của ai đó." Chẳng hạn, "cách chức" ám chỉ đến " huỷ bỏ một chức vụ " hay "tước đi các quyền hành". Như thế, ngay cả khi ta chỉ xem xét các từ hợp thành không thôi, từ "cách mạng" trong tiếng Trung Quốc luôn có một giá trị về chính nghĩa không-thể -nào-bị -hoài - nghi và một giá trị về sự thiêng liêng không-thể -nào-bị -báng -bổ. Đây là một trong những từ được dùng thường xuyên nhất trong kho từ vựng của Đảng Cộng Sản.
Ở Trung Quốc sau năm 1949, khi được xét đến từ các góc độ về xã hội học, văn hoá, và tâm lý tập thể, từ "cách mạng" đã ám chỉ đến sự công bằng, đúng đắn, đức hạnh, vận may, và thiêng liêng. Nó cũng ám chỉ đến quyền lực cao nhất; sở hữu được cuộc cách mạng là đã giành được điều mà Tony Saich( trong Chương 12) gọi là "vốn biểu tượng." Thật không thể nào bày tỏ sự nghi ngờ hay chống đối lại "cách mạng" được. "Cách mạng" ám chỉ đến sự tận tụy, hy sinh, can đảm, không ngại hiểm nguy, lý tưởng, và cảm tình lãng mạn. Nó ám chỉ đến sự trường tồn và sức sống tràn trề. Tất cả những gì ta phải làm là chỉ cần nói "vì cách mạng ...." Nó luôn luôn chứng tỏ một ý chí sắt đá, một sự sẵn sàng "chết chín lần không tiếc". "Cách mạng" ám chỉ đến công bằng và lẽ phải của "đau khổ quá tất sinh ra căm thù sâu sắc", của đổ máu bạo lực, và của cuộc đấu tranh tàn nhẫn. "Cách mạng" thôi thúc căm thù và bần hàn. Nếu có cách mạng, tất phải có căm thù. Hễ ai nghèo nhất thì cũng cách mạng nhất. Vì thế Mao Trạch Đông gọi cuộc cách mạng do ông lãnh đạo là "một phong trào của những kẻ khốn cùng". "Cách mạng" ám chỉ đến tính chất không nhân nhượng, không thoả hiệp, không khoan dung, không hợp tác - công lý cực đoan không biểu lộ lòng vị tha; càng cực đoan, càng quá khích, càng chuyên chế thì lại càng cách mạng. Lòng trung thành của ta không thể nào dao động trong bất kỳ hoàn cảnh nào. "Cách mạng" ám chỉ rằng nổi dậy là chính đáng; rằng hành động cá nhân rất mờ nhạt trước vầng thái dương là hành động được thực hiện nhân danh cách mạng. Cho dù cách hành xử có tàn bạo đến đâu, hành động có mù quáng và thiếu cân nhắc đến đâu, phong trào có vô lý đến đâu -nếu nó có thể được gán cho tên "cách mạng", thì nó trở nên hợp lý và có thể được thực hiện một cách lạnh lùng.
Trong hệ thống giáo dục của Đảng Cộng Sản, nỗi ám ảnh về "cách mạng" đã khiến ta đánh mất lòng nhân đạo và lý trí của mình, đánh mất đi luơng tâm xã hội và lòng độ lượng của mình, đánh mất đi những tiêu chuẩn cơ bản nhất về phải và trái, và ngay cả đánh mất đi sự phân biệt giữa thiện và ác. "Cách mạng" đã khiến chúng ta phát điên. "Cách mạng" đã khiến chúng ta ngột ngạt. "Cách mạng" đã khiến chúng ta hư hỏng đến nỗi chúng ta mất đi khả năng cảm thấy tôn kính, sợ hãi, hay khiêm nhường. Phong trào phản đối năm 1989 lại một lần nữa đã chứng tỏ rằng "cách mạng" vẫn thắng thế. Nọc độc của "cách mạng" ngấm quá sâu trong lòng chúng ta, do đó chúng ta thường xuyên trở thành những vật hy sinh vô thức cho sự nghiệp công bằng cách mạng. Chúng ta vẫn còn say đắm với "cách mạng".
Cách Mạng Là Ngày Hội Của Những Người Bị Áp Bức Và Những Người Bị Bóc Lột
Mặc dù chúng ta đã trải qua sự tàn ác chưa từng có của "Phong trào chống hữu khuynh" và " Đại cách mạng văn hoá", chúng ta vẫn còn không thật sự ý thức về sự rùng rợn và tàn độc của "cách mạng". Dù mười năm cải cách đã làm dịu đi tính chất thiêng liêng của "cách mạng" và làm suy yếu nền văn hoá chính trị đã được xây dựng trên nền tảng của cuộc đấu tranh giai cấp, chúng ta vẫn còn tôn thờ "cách mạng" trong tận xương tuỷ. Chúng ta vẫn là "những người thừa kế cách mạng". Ngay khi chúng ta nhập vào một phong trào chính trị lớn, lòng say mê "cách mạng" của chúng ta chợt dâng cao; ngay khi lửa cách mạng được thắp lên, nó cháy bùng lên thành ngọn lửa cao ngất trời thiêu tan mọi thứ. Bất luận là phong trào thuộc về cực hữu hay cực tả, chuyên chế hay dân chủ, tiến bộ hay phản động, "cách mạng" đều thay thế tất cả. Từ trong bất kỳ khuynh hướng nào cũng đều có thể khích động lòng tôn thờ "cách mạng" cuồng nhiệt của chúng ta. Phong trào năm 1989 một lần nữa là cuộc "cách mạng vĩ đại" của quần chúng tiến bước tới dân chủ. Cho dù kết cục của nó có bi kịch, đẫm máu, nhiệt tình cách mạng vốn nằm im lìm trong gần mười năm lại một lần nữa trỗi dậy làm chủ chúng ta; cuối cùng, nó lại bộc lộ sinh lực và năng động của nó. Đây là một cơ hội làm lay động đất trời. Tất cả mọi người đều muốn lợi dụng cơ hội này để tạo nên kỳ tích, một thành tựu thật lớn để gây ấn tượng cho bao thế hệ đến sau.
Các sự kiện trong tháng Năm năm 1989 khiến ta nhớ đến lời tuyên bố nổi tiếng của Lenin: " Cách mạng là ngày hội của những người bị áp bức và những người bị bóc lột". 2 Các đám đông kéo đến Quảng Trường Thiên An Môn để biểu tình và diễu hành thoạt đầu đi bộ đến; rồi sau đến từng nhóm đi xe đạp, xe ba bánh, và sau cùng đến bằng xe máy và ô tô. Tiếng máy xe nỗ ầm ỉ, cờ phướng phất phới, biểu ngữ giăng đầy, hết khẩu hiệu này đến khẩu hiệu khác đưọc đua nhau hô vang trời, đâu đâu cũng thấy dấu hiệu chữ "V"(tượng trưng cho "chiến thắng"), và những nụ cười nở rộng trên khuôn mặt mọi người-tất cả những yếu tố này đã tạo nên bầu không khí hân hoan như thể đây là một cuộc trình diễn nghệ thuật ngoài trời. Một biểu ngữ khổng lồ, dài hàng chục mét, căng ngang Viện Bảo Tàng Lịch Sử Cách Mạng, hiển hiện chỉ một từ "Thức Tỉnh". Những sinh viên tuyệt thực tiếp tục đổ vật xuống; các bác sĩ trong áo choàng trắng chạy lui chạy tới như con thoi, và tiếng còi hụ của các xe cứu thương rú lên liên hồi. Cảm giác bi kịch về cái chết cho chính nghĩa đang đến gần càng tăng thêm bầu không khí phấn kích như trong cuộc trình diễn của Quãng Trường. Các sự kiện liên hoan trên Quãng Trường, trong đó sinh viên đại học là các diễn viên chính, đã thu hút các nông dân, công nhân, binh lính, cán bộ, thuơng gia, nhà doanh nghiệp, trí thức, và có cả một vị giáo sư tóc bạc chống gậy đi lần bước qua những hàng người đang bày tỏ sự ủng hộ của họ dành cho sinh viên. Một phụ nữ về hưu luống tuổi, mặt in hằn những vết nhăn, ngồi trên chiếc xe ba bánh do con trai kéo. Bà cũng làm dấu hiệu chữ "V" tượng trưng cho chiến thắng. Những em học sinh trung học và tiểu học mang biểu ngữ và giơ cao nắm đấm ủng hộ các anh chị của mình. Những cháu bé học mẩu giáo, theo sự hướng dẫn của các cô giáo họ gọi là "các cô", vẫy những lá cờ ba cạnh rực rỡ, cũng hòa mình vào niềm vui chung. Rồi đến những vị tu hành đầu cạo trọc, mình mặc áo sòng, vừa tụng kinh vừa gõ " cá gỗ". Tất cả các nhân tố đa dạng này đan quyện vào nhau khiến cho người ta có cảm tưởng sai lầm rằng đây là một cuộc cách mạng sắp sửa thành công. Tất cả điều này làm đậm đà thêm bầu không khí hân hoan. Quãng trường tưng bừng như trong những ngày lễ Quốc Khánh hay trong ngày lễ Quốc Tế Lao Động hằng năm, lại càng giống như một quảng trường nơi các đám đông mừng vui đổ xô về ngay giữa khi một "cuộc cách mạng" đang diễn ra. Quả thật phong trào phản kháng năm 1989 đã làm cho mỗi người tham gia đều hân hoan nhảy múa trong niềm hoan hỷ phấn chấn. Khởi đầu vào ngày 1 tháng Mười năm 1949, khi Mao Trạch Đông dẫn đầu buổi lễ thành lập nhà nước, từ đấy hằng năm những lễ hội tương tự đều diễn ra ở Quảng Trường Thiên An Môn. Cách đây bốn mươi năm, Mao Trạch Đông, lòng đầy tự tin, tuyên bố cách mạng thành công; bốn mươi năm sau, những nhà lãnh đạo trẻ của sinh viên đại học và các trí thức nổi tiếng, lòng cũng ngập tràn tự tin, đang nôn nao chờ đợi thời khắc thành công của cuộc cách mạng "mới nhất". Chúng ta tưởng rằng chế độ độc tài của Đặng Tiểu Bình thật sự có thể đến hồi cáo chung ở ngay giữa lòng cuộc cách mạng long trời lở đất này; chính quyền của chế độ chuyên chế độc đảng thật sự có thể sụp đổ giữa "rừng" cánh tay đưa lên. Có bao nhiêu bậc anh hùng trong thời điểm đó mơ tưởng đến những vai trò họ muốn đóng sau khi họ đạt danh tiếng? Bầu không khí cách mạng hân hoan ấy khiến ta không thể nào nhìn thẳng vào hiện thực chính trị của Trung Quốc và vào sự ổn định của chế độ cai trị của Đảng Cộng Sản. Không chỉ đơn thuần là Đảng Cộng Sản nắm chặt trong tay toàn bộ guồng máy chính quyền cũng như nắm quân đội mấy triệu người; mà cũng đúng là, qua mười năm cải cách và tự do hoá về kinh tế, Đặng Tiểu Bình đã giành được sự ủng hộ của nhân dân. Chúng ta lại lầm tưởng sự bất mãn trong nhân dân về một số vấn đề liên quan đến cải cách là sự mất hy vọng hoàn toàn vào chế độ Đặng Tiểu Bình. Chúng ta nghiêng về ý kiến cho rằng, với sự ủng hộ của quần chúng, Triệu Tử Dương sẽ thay thế Đặng Tiểu Bình. Tuy nhiên, chúng ta không thể nào đánh giá hợp lý những thành công và những thất bại của mười năm cải cách và tự do hoá về kinh tế. Chúng ta những nhà trí thức nổi tiếng, xuất phát từ quyền lợi riêng của mình (từ sự xuống giá của tri thức trước cơn thuỷ triều đang lên của hàng hoá đến mức sống tương đối sút kém của giới trí thức, vân vân), đã hưởng ứng sự hoài nghi trong nhân dân về các chiến dịch "bài trừ tham nhũng" và "chống tự do hoá về kinh tế" rồi phóng đại ý nghĩa của nó lên thành sự hoài nghi chung cho tất cả các chính sách quản lý của Đặng Tiểu Bình. Thực tế cho thấy, mặc dù nhân dân có bất mãn về một số vấn đề liên quan đến cải cách và mặc dù các chiến dịch "bài trừ tham nhũng" và "chống tự do hoá về kinh tế" đã hơi làm sút giảm uy tín của Đặng Tiểu Bình, nhưng nhân dân vẫn thừa nhận rằng trong thời của Đặng Tiểu Bình (ngược lại với thời đấu tranh giai cấp của Mao Trạch Đông) toàn bộ mọi nỗ lực đều được tập trung vào việc phát triễn kinh tế và nâng cao mức sống. Điều này đã tạo ra sự ủng hộ sâu rộng trong nhân dân và tạo ra một tính chính danh vững chắc và thực tế. Sự suy giảm lòng dân và tính chính danh thực tế do các chiến dịch "bài trừ tham nhũng" và "chống tự do hoá về kinh tế" chủ yếu giới hạn trong giới trí thức. Còn quần chúng chỉ đòi hỏi là họ làm ra tiền và mức sống của họ được tăng dần lên. Khi những yêu cầu này được đáp ứng, quần chúng không muốn hoặc từ bỏ hoàn toàn chính quyền hiện nay hay bác bỏ hoàn toàn các chính sách cai trị của Đặng Tiểu Bình. Khách quan mà nói, so với thời Mao Trạch Đông, những thay đổi ở Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình-sự tiến bộ của chính đảng cai trị và sự thức tỉnh trong ý thức của quần chúng - đã làm kinh ngạc thế giới. Những thay đổi và tiến bộ to tát mà mười năm cầm quyền của Đặng Tiểu Bình đã mang đến cho Trung Quốc lớn lao hơn những thay đổi và tiến bộ mà mười năm của Mao Trạch Đông có thể tạo ra. Chúng ta không thể, chỉ vì sự độc tài của Đặng Tiểu Bình, mà phủ nhận sạch trơn những thành quả của cải cách. Chế độ cai trị chuyên chế của Đảng, việc bắn chết dân, sự chuyên chính - tất cả những cái này đều là những cái ác cần phải sửa đổi, nhưng khi chúng ta đối diện với những thực tế của Trung Quốc, chúng ta thừa nhận rằng sự sửa đổi này phải từ từ, ôn hoà, và lâu dài. Chúng ta không chỉ phải dựa vào áp lực chính trị từ nhân dân mà thậm chí cũng phải dựa nhiều vào sự tự cải cách của Đảng Cộng Sản. Nếu áp lực chính trị trong nhân dân vượt quá khả năng thật sự của những kẻ đang nắm quyền để chịu đựng được áp lực này, phản ứng nó gây ra sẽ không đẩy nhanh sự tự cải cách của Đảng Cộng Sản và quá trình dân chủ hóa. Ngược lại, nó sẽ làm gián đoạn hay làm trì hoãn quá trình này. Bài học từ cuộc đổ máu của ngày 4 tháng Sáu rõ ràng đã nói lên điều này. Hơn nữa, sau ngày 4 tháng Sáu, Đặng Tiểu Bình đã nhanh chóng khôi phục lại trật tự xã hội. Đảng Cộng Sản một lần nữa giành lại sự kiểm soát chặc chẽ về tình thế. Điều này chứng tỏ quyền lực của Đặng Tiểu Bình không chỉ dựa vào trấn áp bạo lực và khủng bố đẫm máu. Quyền lực này cũng phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân tích luỹ được trong mười năm cải cách. Máu của ngày 4 tháng Sáu hoàn toàn không đảo ngược sự ủng hộ này trong nhân dân. Đặng Tiểu Bình chỉ cần tiếp tục kiên trì cải cách và phát triễn kinh tế. Nếu Đảng Cộng Sản kiên trì hoàn thiện chính mình, chế độ cai trị của Đặng Tiểu Bình chắc chắn không đổ nhào bất ngờ được. Hiện thực trước ngày 4 tháng Sáu, sự kiện về cuộc Thảm Sát Ngày Bốn Tháng Sáu, và thực tế về sự thực hiện cương quyết các cải cách sau ngày 4 tháng Sáu tất cả đều bộc lộ một sự thật mà chúng ta những người tham gia trong phong trào Ngày Bốn Tháng Sáu về mặt cảm tính không muốn chấp nhận nhưng về mặt trí thức chúng ta phải chấp nhận, đó là ở Trung Quốc ngày nay con đường ít tổn thất nhất để tiến tới dân chủ hóa và hiện đại hóa là con đường tự cải cách của Đảng Cộng Sản. Áp lực chính trị từ xã hội dân sự chỉ có thể đẩy mạnh một cách chừng mực sự tự cải cách loại này. Một chút bất cẩn thậm chí cũng có thể dẫn tới một bi kịch còn lớn hơn bi kịch của Ngày Bốn Tháng Sáu. Vì chúng ta đã nhìn thấy được hiện thực chính trị Trung Quốc đúng như thực trạng của nó hiện nay, chúng ta hãy quay trở lại phong trào phản kháng năm 1989. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng, do bị chính nghĩa cách mạng quyến rũ, chúng ta đã từ bỏ lý trí của chúng ta. Chúng ta không có cách nào biết được một cách khách quan là trong gần một triệu người tập trung ở Quảng Trường Thiên An Môn thời ấy có bao nhiêu người hoàn toàn bất mãn với các cải cách. Có bao nhiêu người biết rằng bốn mươi năm bi kịch ở Trung Quốc đã xảy ra là do những thái quá điên cuồng của chế độ chuyên chế? Có bao nhiêu người tham gia được hướng dẫn bởi một khái niệm dân chủ rõ ràng và chắc chắn? Ảo vọng được tạo ra từ sức sống của phong trào trong thời điểm đó đã khiến chúng ta không để tâm đến những hậu quả kinh khủng phát sinh từ sự leo thang liên tục của phong trào và cũng đã khiến lòng tin của chúng ta vào chính nghĩa dân chủ ngày càng trở nên xa cách với hiện thực chính trị và lòng tin ấy trở thành sự suy đoán vô lý rằng đân chủ sắp sửa ngự trị ở Trung Quốc.
Do được sinh ra từ mười năm cải cách, Phong Trào Ngày Bốn Tháng Sáu thấy mình trong một môi trường tự do nhất kể từ năm 1949, và môi trường này vừa được khích lệ bởi khuynh hướng dân chủ hoá toàn cầu vừa lại xem mình được bảo vệ bởi những yêu cầu về nhân quyền của các nước dân chủ Phương Tây; phong trào chống lại chế độ chuyên chế và kêu gọi dân chủ một cách chính nghĩa quá đáng. Bi kịch là ở chỗ chúng ta chỉ ý thức theo đuổi dân chủ, ý thức sự thật là dân chủ hoá là một khuynh hướng toàn cầu và là chiều hướng tương lai của Trung Quốc, ý thức đến công luận như được diễn tả qua các đám đông ồn ào ở Quảng Trường, ý thức rằng cả thế giới đồng lòng ủng hộ chúng ta như được chứng tỏ qua cảnh vô số các phóng viên nước ngoài xúm xít quanh chúng ta; chúng ta một lần nữa lại bị choáng ngợp bởi chính nghĩa của chủ nghĩa lý tưởng lãng mạn. Chúng ta quá chính nghĩa, quá táo bạo, và quá tự tin. Chúng ta quá say sưa. Vì thế, chúng ta quên hẳn một điều là hiện thực Trung Quốc thiếu những điều kiện cho sự hình thành bất ngờ một xã hội dân chủ. Chúng ta không ý thức rằng, mặc dù dân chủ hoá chính trị là điều cần phải có trước tiên cho công cuộc hiện đại hoá của Trung Quốc, nhưng nó hoàn toàn không phải là điều kiện trước tiên duy nhất. Nếu không có dân chủ hoá về chính trị, các cải cách hiện nay ở Trung Quốc không thể nào lâu dài và sâu sắc được. Nhưng nếu trọng tâm cải cách chỉ nghiêng quá nhiều sang tự do hoá về chính trị, thì không thể nào tạo ra sự thay đổi theo chiều hướng dẫn đến cải cách và hiện đại hoá. Ở Trung Quốc ngày này, dân chủ hoá không phải là liều thuốc tiên, vì Trung Quốc thiếu những điều kiện thích hợp. Không những chỉ đúng là do nắm chắc quyền lực chính trị, Đảng Cộng Sản không thể chấp nhận một hệ thống chính trị thực thi quyền hành đa đảng (hay đa nguyên về chính trị; mà còn đúng là quần chúng vẫn chưa hiểu đủ thấu đáo các quyền dân chủ nên không thể xử dụng các biện pháp pháp lý để bảo vệ mình trong cuộc đấu tranh cho quyền cá nhân. Qua sự thất bại của phong trào chúng ta càng thấy rõ một điều là chúng ta những sinh viên đại học và trí thức, những người được gọi là "các người lính dân chủ", và "các ngôi sao dân chủ" chỉ hiểu dân chủ trên giấy tờ và trên lý thuyết mà không có kiến thức "khả thi" về dân chủ hành động,thật sự. Chúng ta không hiểu cách thiết lập và thực thi dân chủ như một hệ thống chính trị hay như một tập hợp tổng quát các thủ tục pháp lý. Giáo sư Phương Lệ Chi, người được xem là Sakharov của Trung Quốc, đã từ bỏ một cơ hội rất lớn để xử dụng các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ nhân quyền cơ bản của ông ngay cả trước phong trào phản kháng năm 1989. Vụ ông bị công an ngăn cản không cho đến tham dự bữa tiệc do tổng thống Mỹ Bush mời đã trôi qua gần như hoàn toàn không ai hay biết. Lưu Tân Nhạn, người được mệnh danh là lương tâm của Trung Quốc, có những quan điểm chính trị khác với quan điểm chính trị của phong trào. Trong thời gian trước phong trào phản đối năm 1989, ông vẫn nhất mực bảo vệ chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa xã hội và ủng hộ khái niệm " Loại Trung Thành Thứ Hai".3 Vì lẽ ấy, khả năng xuất hiện một lực lượng đối lập nổi tiếng, từ tập thể các trí thức vẫn chưa học xong bài học vỡ lòng về dân chủ này, là cực kỳ thấp. Phong trào phản kháng năm 1989 được sinh ra từ những nhân tố tổng hợp này chỉ có thể là sự thể hiện tượng trưng cho một ý thức đã định hình. Dân chủ chúng ta theo đuổi trong suốt phong trào lại quá trống rỗng, quá cảm tính, và không vượt qua được giai đoạn phấn kích, lãng mạn của những khẩu hiệu sáo rỗng và chủ nghĩa lý tưởng của ý thức mới thành hình của chúng ta. Phần lớn những phượng tiện và cách thức chúng ta xử dụng để động viên quần chúng đều là những thứ đã được chính Đảng Cộng Sản dùng đến nhiều lần trước đây. Chúng ta theo đuổi sự thay đổi trên phạm vi lớn song lại sáo rỗng, giật gân và chúng ta không muốn đưa ra những yêu cầu từng điểm một, cụ thể, cũng như không sẵn sàng thật sự thực hiện tầm nhìn của mình. Điều này khẳng định là chúng ta vẫn còn không hiểu rằng dân chủ hoá không chỉ là một lý tưởng, không chỉ là một cảnh tượng hoành tráng; nó cũng là một quá trình thật sự, cụ thể, rất chi tiết, thậm chí đến cả tẻ nhạt để xây dựng và áp dụng những thủ tục dân chủ. Về nhiệm vụ cụ thể để thực sự tạo ra một xã hội được điều hành một cách dân chủ và hoạt động tốt, chúng ta cũng giống như Đảng Cộng Sản: cả hai ta đều phải bắt đầu từ đầu.
Những ngày vui cách mạng ấy, tuy làm lay động cả thế giới song do được nâng đỡ bởi chính nghĩa dân chủ lớn lao nhưng lại trống rỗng của chúng ta, đã dẫn chúng ta đi sai đường. Đối với chúng ta, những trí thức nổi tiếng lúc nào hai tiếng dân chủ cũng ở trên đầu môi, dân chủ hoá ra là một nỗ lực phức tạp hơn chúng ta tưởng.
HY SINH TRƯỚC BÀN THỜ CHÍNH NGHĨA
Theo đuổi những thay đổi ngoạn mục, đáng kinh ngạc tất dẫn đến sự khuấy động tình cảm quá khích. Đỉnh cao của sự sôi nổi tình cảm quá khích là sự từ bỏ tập thể sinh mệnh của mình cho các hành động anh hùng. Vì cuộc đua tài, vì dân chủ, vì tự do, chúng ta sẵn sàng tiến đến bàn thờ của chính nghĩa - rồi đến của hy sinh. Trong tháng Năm năm 1989, sinh viên tổ chức một đợt tuyệt thực tập thể với hơn một ngàn người tham dự. Phong trào không được hướng dẫn bởi lý tưởng của bất kỳ cá nhân nào mà bởi chủ nghĩa quá khích tình cảm. Bất kỳ ai quá khích đều trở thành đối tượng chú ý của mọi người. Khắp nơi -trong những lời tuyên bố của các sinh viên tuyệt thực và trong những lời tuyên bố của mỗi nhóm ủng hộ những người tuyệt thực, trong "rừng" biểu ngữ và trong các khẩu hiệu, trên những áo thun của các sinh viên tuyệt thực đeo khăn tang trắng trên đầu -ta có thể thấy những dòng chữ này: " Chúng ta làm nên lịch sử bằng sinh mệnh của mình"; "Chúng ta dùng chính dòng máu tươi của ta để mở đầu một kỷ nguyên mới cho nhân dân Trung Quốc"; " Vì thế hệ tương lai ta nhất định không tiếc gì cả"; "Máu rơi trên cổng thành của tổ quốc là lệ tưới cho đất màu mỡ"; "Thà chết còn hơn không có tự do". Tại những trung tâm chỉ huy của sinh viên ở Quảng Trường, họ liên tục phát thanh lời thề: "Đầu có thể rơi, máu có thể đổ, nhưng tự do dân chủ bất diệt". Nhạc điệu buồn bả của bài hát chính thức, "Quốc Tế Ca", của Đảng Cộng Sản Trung Quốc; bầu không khí tử vì đạo càng lúc càng nặng nề; và tinh thần hy sinh tất cả quyện lẫn vào nhau hoàn toàn. Từ viết thư bằng chính máu mình rồi đến viết di chúc, các sinh viên qua đó đo lòng quyết tâm của mình cho sự nghiệp bằng những cái chết được thêu dệt ra. Hình ảnh xả thân vì chính nghĩa này làm xúc động mọi người ở Quảng Trường. Tiếng hú còi sầu thảm của các xe cứu thương tưởng như xé trời xanh báo hiệu trước cái chết có thể xảy ra bất kỳ lúc nào. Các xe cứu thương, đèn đỏ loé sáng, chạy hối hả trên con đường " huyết mạch" do các sinh viên trong các đội trật tự công cộng (giăng tay nối nhau) tạo ra. Vẻ mặt của những người gần chết nằm trên cáng, cảnh các bác sĩ trong áo choàng trắng, cảnh các y tá la to và ra dấu cho đám đông "tránh ra" -hết thảy đều chứng minh tấn bi kịch của sự hy sinh sinh mệnh tập thể. Tình cảnh cảm động của mười hai sinh viên Trường Kịch Trung Ương nhịn uống nước vượt trội hơn cả tình cảnh của những người tuyệt thực, do thế, mười hai sinh viên này trở thành những thần tượng trên Quảng Trường. Qua mọi phương tiện tuyên truyền, và nhờ các đám đông chứng kiến, họ được nâng cao lên và rồi đưọc đặt lên trên bàn thờ của sự hy sinh vì chính nghĩa để nhấn mạnh đến cảnh chết cho chính nghĩa này. Hình ảnh đẹp nhất và xúc động nhất này của Trung Quốc ở cuối thế kỷ hai mươi đã thoả mãn mặc cảm chết cho chính nghĩa tiềm tàng quá lâu trong lòng người dân. Nếu như một vài sinh viên đòi tự thiêu không được thuyết phục từ bỏ hành động như thế, những ngọn đuốc sống chết cho chính nghĩa sẽ thật sự thắp sáng trên Quảng Trường, và lời dạy đạo đức thánh hiền từ xưa, " huỷ mình để giữ trọn khí tiết", ngày nay ắt vẫn còn có ý nghĩa.
Hành vi hiến thân cuồng tín này và tinh thần hy sinh này xuất phát từ ý nghĩa sứ mệnh cao cả mà xã hội ban cho sinh viên. Những sinh viên trẻ này, cảm nhận mình được toàn xã hội ủng hộ, cảm thấy mình là hiện thân của chính nghĩa. Hơn nữa, những người dân trong mọi tầng lớp xã hội cũng đều tôn kính họ như là hiện thân của chính nghĩa. Khi ý thức chính nghĩa này càng ngày càng trở nên cực đoan hơn, ngoại trừ chính quyền lòng dạ sắt đá, không có ai còn đủ tính táo để tự hỏi: kết cục của những biểu hiện cực đoan này rồi sẽ đi về đâu? Như thể toàn bộ xã hội đã khắng định, qua các hành động của họ, những sinh viên trẻ nên đứng ra gánh vác trên đôi vai tập thể của họ trách nhiệm thiên định, to tát là hãy cứu Trung Quốc ra khỏi nanh vuốt của bạo quyền. Ý nghĩa sứ mệnh bị phóng đại và ý nghĩa hùng tráng về cảnh mình đang-làm -nên lịch sử đã khiến sinh viên mất khả năng tự kiềm chế và tự biết mình. Họ không biết là đôi vai non của họ hoàn toàn không thể gánh vác một trách nhiệm nặng nề đến như thế. Bị lôi cuốn trước sức quyến rũ chính nghĩa càng lúc càng mạnh, các sinh viên, qua việc thế chấp sinh mệnh của mình, đã khai chiến một cuộc kháng cự liên tục leo thang và vô ích chống lại chính quyền. Tưởng chừng như chỉ qua hy sinh tính mạng của mình ta mới làm cho chính quyền động lòng, chỉ qua hành động xả thân ta mới có thể làm cho quần chúng thức tỉnh, và chỉ qua cái chết ta mới đạt được chính nghĩa hay mới có đủ tư cách để tượng trưng cho chính nghĩa. Cho nên không lạ gì là sau khi nghe một số người chỉ trích các sinh viên là đã quá hăng và quá dũng cảm khiến lý trí và phán xét bị lu mờ, Sài Linh,thủ lãnh cao nhất ở Quảng Trường và sau này đã trốn thoát đưọc ra nước ngoài, đáp lại với vẻ bình thường: " Tại Quảng Trường vào thời điểm đó dũng cảm đơn thuần là tiêu chuẩn". Điều đó có nghĩa là, hãy đừng màng đến hiện thực, hãy từ bỏ lý trí, chúng ta chỉ cần dũng cảm, chỉ cần sẵn sàng hy sinh quên mình; chúng ta là những hào kiệt của phong trào phản đối năm 1989. Điều đáng tiếc là, sau khi phong trào phản đối năm 1989 bị trấn áp bằng lưỡi lê và xe tăng, người ta đọc lướt qua danh sách những người lãnh đạo trong phong trào ngày Bốn tháng Sáu nhưng chẳng tìm thấy dù chỉ một Đàm Tự Đồng đương thời. Những ai đưọc tôn là anh hùng trong những khoảnh khắc hồi hộp nhất của phong trào cũng như những ai lãnh đạo xem mình là anh hùng, sau ngày Bốn tháng Sáu, đều lần lượt bị xử ở toà án của đạo lý và lẽ phải. Nhân dân không thể nào chịu đựng nổi sự thật là cả nước đã chờ đợi một bậc anh hùng chết cho chính nghĩa thế mà chẳng thấy xuất hiện một ai. Nhiệt tình của chúng ta đã hoài phí. Máu của chúng ta đã đổ ra vô ích.
Trong sự theo đuổi xả thân này và trong tâm lý tập thể của sự chờ đợi một đấng anh hùng hy sinh vì chính nghĩa, ta có thể thấy sự thành công to lớn về xã hội hoá Đảng Cộng Sản. Thấy được phong thái của những người nối gót theo những tiền nhân chết cho chính nghĩa, người ta không thể nào không nghĩ đến những đảng viên Đảng Cộng Sản, những người, vì sự ra đời của nước Trung Quốc mới, đã hoạt động bí mật trong những thời kỳ dài. Lời bào chữa được viết ra từ trong tù của Vương Đào Quân và Trần Tử Minh trong đó cả hai đều đề cập đến những hành động đáng khâm phục trong sự nghiệp chân chính mà thế hệ trước của Đảng Cộng Sản đã thực hiện trước ánh dao của đao phủ thủ có thể được coi là các tấm gương cho thế hệ sau này. Bắt đầu từ lúc chúng ta vào trường tiểu học, chúng ta đã nghe những câu chuyện về Lưu Hồ Lan và Đổng Tồn Thụy; 4 chúng ta đã biết lời tuyên bố của Mao Trạch Đông: " Sinh cao cả, tử vinh quang". Bài ca đội thiếu niên tiền phong có tên là " Luôn Luôn Sẵn Sàng". Sẵn sàng cho cái gì? Sẵn sàng dâng hiến đời mình cho Đảng Cộng Sản. Nói chung, do ở trường hay dạy là bầu máu nóng trong người nên sẵn sàng tuôn trào ra cho cách mạng nên chúng ta tin rằng ta chỉ cần cống hiến đời mình và dũng cảm hy sinh mình là đủ để mang lại lẽ phải và công bằng cho mọi ngưòi (và chính lẽ phải này có thể đảm bảo cho ta lưu danh muôn thuở). Chúng ta chỉ không xem xét rằng tất cả những gì mà máu tươi và cái chết này đã thiết lập là một chính quyền chuyên chế, dã man. Mao Trạch Đông, hô hào tinh thần hy sinh và kêu gọi mọi người " thứ nhất, không sợ gian khổ, thứ hai không sợ chết ", thì cũng chẳng khác gì hơn là một tay bạo chúa giết người. Chúng ta đã không nhận thức ra rằng chính nghĩa này- được hình thành chính từ sự dại dột cống hiến đời mình và hy sinh đời mình- đã khiến chúng ta tin rằng để thực hiện một cuộc cách mạng, tất cả những gì chúng ta cần là can đảm chứ không phải phán xét; tất cả những gì chúng ta cần là nhiệt tình chứ không phải lý trí; quá khích chứ không phải thoả hiệp; cảnh tượng đẹp đẽ huy hoàng chứ không phải lưu tâm đến những sự việc đời thường. Nhận xét của Sài Linh " can đảm là tiêu chuẩn" có thể được hiểu ở nghĩa rằng dũng cảm là chính nghĩa hay, chính xác hơn, đó là chính nghĩa tự cho mình đúng làm ta tin chúng ta có thể tiến tới dân chủ mà không hiểu những trách nhiệm kèm theo của dân chủ, chúng ta có thể đòi hỏi tự do mà không hiểu trách nhiệm của tự do. Hay nói cách khác, chính nghĩa ấy khiến chúng ta hiểu dân chủ là nhiệt tình dâng hiến đời mình và dũng cảm hy sinh; hiểu dân chủ là nhiệt tình cao ngất, là cảnh tượng hùng tráng của các đám đông lớn, là vô vàn những khẩu hiệu. Đơn thuần là chúng ta không quen biết rằng dân chủ là sự thiết kế, thực hiện, vận hành của một hệ thống hợp lý. Dân chủ có mặt trái của nó. Dân chủ hoàn toàn không lãng mạn như lý tưởng chúng ta tán dương; dân chủ là đời thường, thậm chí tầm thường. Có lẽ chỉ qua học phí trả bằng máu chúng ta mới có thể ý thức được rằng can đảm không phải là chính nghĩa và kháng cự không phải là dân chủ.
Chính Nghĩa Của Chuyện Ta Muốn làm Gì Thì Làm
Trong bốn mươi năm, chúng ta đã không có bất kỳ trải nghiệm chính trị dân chủ nào; mắt và tai chúng ta chỉ nghe thấy toàn quá nhiều những cuộc đấu tranh tàn ác và những mưu chước thâm độc của chính quyền chuyên chế. Ngay khi chúng ta bắt đầu cuộc cách mạng của mình, chúng ta trở nên cực kỳ tự phụ - như thể chúng ta đã quay trở lại thời kỳ Cách Mạng Văn Hoá là khi chúng ta cảm thấy mình là những người cách mạng nhất. Rồi ngay khi chúng ta gia nhập vào phong trào phản kháng năm 1989, chúng ta lại tự xem mình là những người dân chủ nhất. Dù sao, phải chăng chúng ta đã không tuyệt thực vì dân chủ, hết mình vì dân chủ và hy sinh cho dân chủ? Điều này làm cho chúng ta càng chắc chắn hơn rằng hành vi của chúng ta có chính nghĩa cao nhất. Tiếng nói của chúng ta trở thành chân lý duy nhất. Chúng ta cảm thấy như thể chúng ta sở hữu quyền lực tuyệt đối. Chân lý trở thành điều tuyệt đối đúng mà không chấp nhận sự chất vấn; chính nghĩa trở thành chuyện ta muốn làm gì thì làm; dân chủ trở thành đặc quyền; Quảng Trường trở thành một nơi kỳ diệu mà tại đấy chân lý được phán xét, quyết tâm được thử thách, tình cảm được tôi luyện, công lý được mở rộng, và các quyền con người được thực thi. Những kẻ không đến Quảng Trường hay chỉ trích Quảng Trường đều là lũ hèn nhát bất lương, chống dân chủ . Phong trào đã biến Quảng Trường thành một tiêu chuẩn để phán xét mọi người. "Tôi đã ở Quảng Trường một thời gian" và "Tôi đã từng đến Quảng Trường" trở thành những mật khẩu của ý thức dân chủ và của lương tâm xã hội.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Thế là bây giờ chúng ta có thể làm những gì chúng ta thích. Quản lý sinh viên thay thế trật tự xã hội của đảng chính trị. Các đội trật tự công cộng trở thành công an giao thông. Thẻ sinh viên trở thành thẻ đa dụng - với thẻ này, chúng ta có thể đi xe không cần mua vé, đi ăn chẳng cần trả tiền, chặn xe lại tuỳ hứng, lục xét hay tra hỏi bất kỳ người đi bộ nào có vẻ khả nghi, tuỳ tiện phung phí tiền bạc do các công dân đóng góp, bất cần vệ sinh, khạc nhổ lung tung, xả rác tuỳ thích, đại tiện và tiểu tiện khắp nơi, thậm chí cả trét phân người lên trên các cửa sổ của xe buýt công cộng và chả thèm quan tâm gì đến các thủ tục pháp lý. Chỉ cần con dấu của bộ chỉ huy Quảng Trường, chúng ta có thể tuyên bố mình đã kết hôn- đây được gọi là " đám cưới dân chủ ở Quảng Trường". Chúng ta có thể tự ý phá hoại tài sản công cộng, xì hơi các lốp xe buýt công cộng, rồi tuyên bố một cách tự tin rằng làm như thế để đập tan âm mưu của chính quyền. Quảng Trường Dân chủ thành Quảng Trường nơi ta muốn làm gì thì làm. Đó là một Quảng Trường mà mùi phân và nước tiểu bốc lên và lan ra nồng nặc; đó là Quảng Trường nơi rác chất cao như núi.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Thế là bây giờ chúng ta không thể thoả hiệp hay hợp tác mà có thể thích thì tạo bè phái,lập ra các tổ chức, tự phong vương, thi nhau đặt tên các nhóm của chúng ta là Liên Hiệp Tự Trị Tối Cao, Nhóm Tuyệt Thực, Nhóm Đối Thoại, Liên Hiệp Tối Cao Ngoại Vụ, Liên Minh Các Nhà Báo, Đội Quyết Tử, Đội Phi Hổ, Đội Quân Tây Lộ, Đội Quân Thiếu Nhi vân vân. Không ai chịu nhường ai,và không ai quản lý ai. Lời người xưa," ai cũng có thể trở thành Nghiêu Thuấn" đã trở thành "ai cũng có thể trở thành chính khách". Ai cũng có một triết lý chính trị riêng. Quảng Trường, nơi nhìn vào ta tưởng chừng các đám đông đoàn kết như một, thực ra là nơi có nhiều chia rẽ, nơi ai cũng xem mình là một chính quyền có chủ quyền riêng biệt. Cho dù nếu có đạt đến thoả thuận, song nếu muốn ta chẳng cần phải tôn trọng thoả thuận ấy. Cho dù ta có đưa tay lên để bỏ phiếu tán thành một quyết định về đường lối, ta có thể bác bỏ quyết định ấy ngay khi ta rời khỏi nơi họp và rồi, nhân danh chính nghĩa, cuói cùng ta lại thực hiện quyết định ấy. Giữa các trường và giữa các tổ chức,có những bức tường không thể vượt qua được. Tâm trạng xem mình là người thông thái nhất này làm mọi người trong phong trào cực kỳ tự phụ. Giấy phép ưu tiên đường (right-of-way) trở thành dấu ấn đặc quyền. Những ai có quyền phân phát giấy phép ưu tiên đường dường như có quyền quyết định ai có thể gia nhập cách mạng và ai có đủ tư cách tham gia dân chủ. Phong trào của chúng ta tập hợp được rất nhiều người và đã khơi dậy nhiệt tình rất cao, song chúng ta không thể nào có những quyết định hợp lý về đường lối; chúng ta thấy mình rơi vào tình trạng mơ hồ về quyết định đường lối. Giá không phải vì chính quyền thường xuyên có những quyết định sai lầm, từ đó ta có cơ hội đoàn kết lại với nhau, chúng ta có lẽ thật sự trở thành một đám đông mù quáng không có phương hướng.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Thế là bây giờ lòng chúng ta có thể chất đầy căm thù, như ta cầm chiếc áo sơ mi đẫm máu mà đấu tố Đảng Cộng Sản tàn ác; ta nghiến răng chửi mắng họ; ta chế diễu tính cách của kẻ khác; ta tham gia vào những cuộc đả kích cá nhân đầy ác ý. Chúng ta có thể nhiếc mắng ai đó là đồ ngu, ai đó là kẻ lùn tịt, ai đó là thứ ngốc nghếc. Chúng ta có thể tuyên bố xử bắn ai đó, luộc ai đó trong vạc dầu, chôn sống ai đó, bắt ai đó phải tự tử, bắt ai đó phải trở về nhà với gia đình; chúng ta còn nói xấu những ai không thuộc giống nòi của chúng ta. Thái độ của chúng ta là thô lỗ và vô lý, thậm chí đến mức chúng ta phải choảng lẫn nhau; chúng ta có thể mượn tên của chính nghĩa để bày tỏ những phàn nàn cá nhân không đáng; chúng ta có thể không thích chấp nhận bất kỳ những ai đứng ra làm trung gian bất kể địa vị hay cá nhân của họ, chúng ta có thể theo một đường lối cứng rắn không thoả hiệp, không khoan nhượng, và không hợp tác - quá khích mù quáng, hận thù mù quáng- đến nỗi phong trào phản kháng đã leo thang từ những yêu cầu sửa sai cụ thể đến sự hận thù muốn lật đổ chính quyền và tống cổ Đặng Tiểu Bình đi. Đồng thời chúng ta tự đẩy mình vào một tình thế không có lối thoát, chúng ta buộc chính quyền, mà lập trường ban đầu của họ là đối thoại và thoả hiệp, vào hoàn cảnh chẳng đặng đừng là dùng quân đội đàn áp phong trào ôn hoà. Cùng với chính quyền, mà chịu trách nhiệm về tội ác bắn giết nhân dân, phải chăng chúng ta, "những chiến sĩ dân chủ ", những người rất tự tin về chính nghĩa của mình, những người góp phần tạo ra bi kịch đẫm máu cuối cùng ấy lại chẳng chịu trách nhiệm đạo đức nào hay sao? Căm thù, quá khích, không khoan nhượng -đây chính xác là những phẩm chất cách mạng Mao Trạch Đông đã kêu gọi một cách rất tự tin; đây chính xác là nơi tập trung toàn bộ cốt lõi của văn hoá chính trị đấu tranh giai cấp. Cách mạng phải được tiến hành một cách không dao động đến cùng. Bất kỳ ai ủng hộ triệt tiêu căm thù hay muốn đạt đến thoả thuận thông qua thoả hiệp và nhân nhượng là kẻ hèn nhát, là tên phản bội, hay là tên cướp có học vị. Kết quả là lời thề của chúng ta quyết tử để bảo vệ Thiên An Môn -quyết tâm của chúng ta để sống hay chết với Quảng Trường -trở thành sự thương lượng, thoả hiệp, và rút lui ôn hoà lần cuối cùng khi mối đe doạ của tử thần thật sự đến.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Bây giờ, chúng ta nói láo thản nhiên, tung tin đồn ngay giữa thanh thiên bạch nhật; gặp những ai quan tâm liền khẳng định việc nói láo của mình là đúng; tuyên bố một cách vô trách nhiệm: "Đặng Tiểu Bình đã chết"; "Lý Bằng đã bỏ chạy"; " Dương Thượng Côn bị thương";"Triệu Tử Dương đã trở lại"; "Vạn Lý đã lập chính phủ mới ở Canada"; "Mười hai cán bộ của Hội Đồng Nhà Nước đã tuyên bố rút lui ra khỏi chính phủ hiện nay"; "Quảng Đông và các khu tự trị thiểu số đã tuyên bố Độc Lập"; "Binh đoàn Hai Mươi Bảy và Ba Mươi Tám bắt đầu giao chiến"; vân vân. Quảng Trường Thiên An Môn, biểu tượng của phong trào dân chủ, trở thành nơi hội tụ và phát tán các lời nói láo và các tin đồn. Lời nói láo càng láo thì càng được nói đến, còn tin đồn có nguồn gốc càng không chắc chắn thì bất ngờ trở thành lực đẩy của phong trào. Chúng làm cho những hành động quá khích dường như hợp lý hơn, nâng cao hy vọng chiến thắng hão huyền của nhân dân, và khiến chúng ta không tài nào biết được chuyện gì thực sự đang diễn ra ở Trung Quốc. Sau ngày 4 tháng Sáu, các "chiến sĩ dân chủ" chạy thoát ra nước ngoài đã cố ý bóp méo các sự việc để phóng đại lên sự tàn bạo và độc ác của Đảng Cộng Sản và qua đó tạo cho mình hình ảnh anh hùng của những con người đã vượt thoát ra được cơn tắm máu; họ đã làm hoen ố bề mặt nhuộm máu của Quảng Trường Thiên An Môn và lừa dối dư luận quốc tế. Dòng thời gian thăng trầm dần dần đã trả sân khấu ban đầu này lại cho lịch sử, và sau khi nhân dân có thể hiểu đúng phong trào phản đối năm 1989, những hậu quả tàn nhẫn cùng bi kịch do các lời nói láo và các tin đồn năm xưa tạo ra sẽ tan dần đi.
"Trước có cách mạng; giờ có dân chủ". Chúng ta có thể coi trọng chỉ tự do ngôn luận của riêng mình thôi, trong khi đó tước đi ở những người khác quyền tự do ngôn luận này. Chúng ta chẳng khác gì Mao Trạch Đông trước đây, không cho phép tồn tại bất kỳ ý kiến nào khác với mình. Còn về các hành động của chúng ta, chúng ta chỉ có thể hình dung ra sự ủng hộ của những kẻ khác dành cho cho các hành động của chúng ta thôi; ngoài ra không ai có thể được chỉ trích các hành động của chúng ta. Về điểm này, giống công an Đảng Cộng Sản, chúng ta buộc các nhà báo không được chụp những hình nào không có lợi cho chúng ta hay có thể tổn hại đến hình ảnh của chúng ta. Khi các nhà báo la to lên "tự do báo chí" và vẫn chụp hình, chúng ta liền giật phăng một cách thô bạo các máy ảnh từ tay các nhà báo, rồi mở máy ảnh rút phim đưa ra ngoài ánh sáng. Chúng ta đôi lúc còn đập tan tành các dụng cụ chụp hình của các nhà báo. Chúng ta chỉ nghĩ đến các quyền và sự an toàn riêng của mình. Bất kỳ hành vi nào đe dọa đến sự an toàn và các quyền của chúng ta, cho dù hành vi ấy có chính đáng hay hợp pháp, chúng ta đều quyết tâm chấm dứt nó. Để chính quyền không thể lợi dụng một hành động phá hoại tài sản công cộng như là cái cớ để đè bẹp phong trào, chúng ta đã áp giải ba người đã làm bẩn bức chân dung của Mao Trạch Đông treo tại Quảng Trường đến sở công an, kết quả là họ bị Đảng Cộng Sản kết án tù 20 năm, 18 năm, và 15 năm. Phải chăng họ đã không thực thi chính các quyền của họ? Phải chăng họ thật sự đáng ở tù?
Thậm chí điều bi kịch hơn cả là chính nghĩa tự cho mình đúng của phong trào phản kháng năm 1989 đã gần như là mối đe dọa cho mọi người. Những người có ý khiến khác biệt đều trở nên im lặng dưới áp lực của chính nghĩa tự cho mình đúng này. Những ai không dám nói khác và không muốn tham gia vào phong trào cuối cùng cũng xuống đường vì họ sợ bị xem là tên hèn nhát hay kẻ phá bỉnh. Cuộc tuyệt thực biến các sinh viên đại học thành các vị thánh cách mạng không ai có thể chỉ trích được. Ở mức độ nào đó, ta có thể nói rằng cuộc tuyệt thực của sinh viên không chỉ đặt cho chính quyền vào một tình thế khó xử; mà cũng đặt cho xã hội một vấn đề khó xử. Khi người ta nhìn thấy cảnh các sinh viên trẻ trả giá bằng chính sinh mệnh của mình để chống lại chính quyền chuyên chế, thử hỏi có ai đành lòng nói "không"? Những ai có thể nói "không", hay những ai mà cõi lòng họ không bị xúc động trước quyết tâm như thế, đều không có lương tâm. Những ai nghi ngờ tấm lòng thành thật tuyệt đối của sinh viên đều là kẻ đồng loã với chính quyền. Cuộc tuyệt thực đã khiến cho đa số mọi người tạm thời bỏ quên lý trí và đã khiến một thiểu số rất nhỏ tuy vẫn còn giữ được lý trí nhưng lại trở nên im lặng. Ngay cả đến một vài người còn tỉnh táo cũng băn khoăn phải chăng sự bình thản của mình biết đâu là biểu hiện của sự thiếu lòng trắc ẩn cơ bản.
Dân chủ được ca tụng trong suốt phong trào phản kháng năm 1989 chỉ có một lượng rất nhỏ chính nghĩa hợp lý, thực tế. Trong suốt phong trào, chúng ta đã điên cuồng theo đuổi chính nghĩa trừu tượng, mù quáng mà bỏ rơi chính nghĩa hợp lý, đích thực.
Uớc Gì Ngày Bốn Tháng Sáu Là "Chính Nghĩa" Mù Quáng Cuối Cùng
Thất bại của phong trào phản kháng năm 1989 không chỉ ở đổ máu, ở những cái chết sau đó, và ở đợt trấn áp dữ dội phong trào quần chúng tự phát, mức độ lớn; thất bại cũng ở sự thù nghịch mãnh liệt phát sinh từ sự leo thang liên tục của phong trào. Sự leo thang này dẫn tới việc trì hoãn quá trình cải cách và làm suy yếu lòng tin tưởng của nhân dân vào chế độ Đặng Tiểu Bình. Đồng thời nó cũng làm gián đoạn quá trình mà qua đó Đảng cai trị dần dần dân chủ hoá và cải cách chính mình, vì thế Trung Quốc phải chịu sự đảo ngược toàn bộ sự tự cải cách của Đảng. Bầu không khí thư giãn vào đầu năm 1989 không còn nữa, thay thế vào đó là bầu không khí thù nghịch, căng thẳng, và khủng bố. Sau ngày 4 tháng Sáu, năm 1989, việc tái tổ chức kiểm soát chính trị đã khiến nền kinh tế trì trệ. Khái niệm đấu tranh giai cấp được đề cao trở lại đã làm cho cải cách chính trị trở thành một vấn đề rất nhạy cảm. Tử khí dưới thời Mao Trạch Đông lại bay lơ lửng trên mặt đất bao la của Trung Quốc. Mối căm thù chôn vùi trong lòng của quần chúng từ sự kiện đẫm máu này sẽ bộc phát ra ngay khi cơ hội đến. Mặc dù Đặng Tiểu Bình vẫn duy trì đường lối cải cách và Chuyến Công Du Miền Nam của ông đã khích thích sự tăng trưởng trong phát triến kinh tế, nhưng sự kiểm soát chính trị chặc chẽ theo sau các sự kiện ngày 4 tháng Sáu đã dẫn đến sự phát triễn không bình thường trong quá trình hiện đại hoá Trung Quốc, và việc Triệu Tử Dương bị tước quyền bảo đảm rằng cuộc đấu đá quyền lực theo sau cái chết của Đặng Tiểu Bình sẽ rất nguy hiểm. Do Triệu Tử Dương, một người có lương tâm mạnh mẽ, bị tước quyền, cuộc khủng hoảng đã xuất hiện xung quanh cuộc chuyển giao quyền lực mà đáng lẽ ra nên êm thắm và ổn định. Tâm lý "tận cùng thế kỷ" hơi hoang tưởng đã khiến người dân chỉ nghĩ đến chuyện thu vén càng thật nhiều (từ cuộc cải cách vẫn đang còn) trước khi tai ương giáng xuống. Quần chúng ý thức sâu sắc rằng cơ may cuối cùng gắn liền với sức khoẻ của Đặng Tiểu Bình. Nếu cơ may này bị bỏ lỡ, họ sẽ trở thành những con tốt hy sinh vô nghĩa trong thế giới hỗn loạn sẽ theo sau cái chết của Đặng Tiểu Bình. Cái sợ hoang tưởng ám ảnh "tận cùng thế kỷ" này không thể biến mất đơn thuần chỉ qua phát triễn kinh tế. Đồng thời, các nỗi sợ về chính trị của chính Đảng cầm quyền không thể biến mất và mối căm thù của quần chúng cũng không thể dịu đi qua ổn định xã hội hay qua kinh tế phồn thịnh hay nâng cao mức sống. Các nỗi sợ về chính trị của Đảng cầm quyền và cái sợ hoang tưởng "tận cùng thế kỷ" của quần chúng đã làm cho viễn cảnh Trung Quốc có thể tiến bước êm thắm và không ngừng tới một xã hội dân chủ và hiện đại hoá là chuyện rất không tưởng. Nếu Đảng cầm quyền và toàn thể nhân dân không chấm dứt sự căm thù lẫn nhau của họ ngay từ bây giờ để đạt đến hợp tác xã hội,5 lòng căm thù và nỗi sợ hãi của hai bên sẽ không thể nào tan biến được. Khi ngày mất của Đặng Tiểu Bình cận kề, những căm thù và sợ hãi này sẽ trở nên càng ngày càng không đội trời chung hơn, từ đấy đưa đến những biến động xã hội nhanh hơn thay vì chậm hơn.
Vì vậy, chấm dứt thù địch, từ bỏ sợ hãi, đạt đến hợp tác xã hội, và đưa Trung Quốc tiến êm thắm và không ngừng đến xã hội hiện đại, dân chủ không thể chỉ phụ thuộc vào việc Đảng cầm quyền quyết tâm thực hiện tự cải cách và thay đổi hình ảnh của Đảng trong lòng dân; thực hiện những mục tiêu này cũng còn phụ thuộc vào hợp tác của các nhóm đối lập trong nhân dân. Nhờ sự hợp tác này, tự cải cách có thể dần dần thành công. Ổn định hiện nay ở Trung Quốc có lẽ là cơ hộ cuối cùng của chúng ta. Đảng cầm quyền phải thừa nhận rằng (1) dân chủ hoá chính trị của chính Đảng không chỉ là chiều hướng được lương tâm nhân dân tán đồng mà đó cũng là khuynh hướng chung của các sự kiện trên thế giới và rằng (2) tốt nhất là Đảng nên tự ý thức mà thay đổi mình còn hơn là buộc phải thay đổi do tác động từ các yếu tố bên ngoài. Người duy nhất có thể cứu Đảng Cộng Sản là chính Đảng Cộng Sản. Nếu Đảng dần dần, từng bước một, cải cách mình và tiến đến dân chủ hoá, Đảng Cộng Sản sẽ tồn tại. Nhưng nếu Đảng tiếp tục duy trì chế độ chuyên chế độc đảng, Đảng Cộng Sản sẽ lụi tàn. Đồng thời, các nhóm đối lập trong nhân dân không nên đẩy Đảng ra khỏi vị trí cầm quyền; ngược lại, trong khi Đảng Cộng Sản đang thực hiện tự cải cách, những nhóm này nên khuyến khích những thay đổi dưới sự cầm quyền của Đảng. Đối với Đảng cầm quyền và đối với quần chúng, đây là sự chọn lựa chín chắn nhất trong giai đoạn đổi thay toàn diện và mau lẹ.
Trong suốt quá trình này, Đảng cầm quyền nên nghiêm túc cân nhắc việc đi lá bài chính trị -lá bài Ngày Bốn Tháng Sáu. Không ai có thể né tránh mãi sự đánh giá lại vụ Thảm Sát Ngày Bốn Tháng Sáu. Lá bài Ngày Bốn Tháng Sáu phải được đưa ra. Vấn đề rất quan trọng là -lá bài này được đi như như thế nào? Và khi nào ta nên trình bài ra? Như một sửa sai bất ngờ sau cái chết của Đặng Tiểu Bình? Hay ngay từ bây giờ Đảng cầm quyền từ từ giảm bớt niềm bất mãn và oán hận tích tụ trong lòng dân về vụ Ngày Bốn Tháng Sáu? Nên chăng cho tiến hành điều tra khẩn cấp vụ đổ máu này để truy cứu trách nhiệm hình sự? Hay nên chăng cứ hoãn cuộc điều tra lại? Tôi cho rằng chọn lựa khôn ngoan nhất là cách sau cùng. Không cần thiết phải có các bình luận xã hội, không cần tổ chức họp hành to tát, và không cần công bố trước dân chúng. Tất cả những gì cần làm là hãy bồi thường kín đáo cho thân nhân của các nạn nhân Ngày Bốn Tháng Sáu; thả tất cả những tù nhân chính trị Ngày Bốn Tháng Sáu; hồi phục các chức vụ cũ cho những người bị đối xử bất công vì Ngày Bốn Tháng Sáu; dần dần thuyên chuyển công tác rồi xuống chức những kẻ đã ngoi lên quyền lực từ máu của Ngày Bốn Tháng Sáu; và cho phép những người trốn ra nước ngoài vì Ngày Bốn Tháng Sáu an toàn trở về nước. Tất cả điều này, tôi tin, là phần cần thiết cho sự thay đổi hình ảnh của Đảng cầm quyền, là phần của sự dân chủ hoá của Đảng, là phần của những gì sẽ thu phục được lòng dân. Nếu Đảng cầm quyền không bắt đầu ngay từ bây giờ, nếu sau cái chết của Đặng Tiểu Bình có nhà chính trị nào đấy dựa vào sự sửa sai bất ngờ về những sai lầm Ngày Bốn Tháng Sáu để tranh đoạt quyền lực,thì tai hoạ không chỉ có thể sẽ xảy đến cho nhà chính trị này, mà còn cho cả Trung Quốc. Những hậu quả bùng phát từ sự sửa sai bất ngờ nằm ở ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ ai. Cơn lũ thù hận sẽ dìm chết tất cả những kẻ nào muốn dự phần trong bữa tiệc máu Ngày Bốn Tháng Sáu. Ở Trung Quốc tương lai, nói cách khác, những ai ra trận với ánh đao gươm sáng lạnh, vì muốn dẹp tan bao bất bình oan trái của Ngày Bốn Tháng Sáu, biết đâu có thể gây ra một cơn đổ máu khác còn lớn hơn, còn tàn nhẫn hơn nhiều. Biết đâu lại là một lần tắm máu.
Ở Trung Quốc ngày nay, năm năm sau vụ đổ máu Ngày Bốn Tháng Sáu.., trong một Trung Quốc đang đầy lo sợ thời điểm tận cùng của thế kỷ- có nhiều việc cần phải được hòa giải. Tôi không biết liệu chúng ta những sinh viên đại học và trí thức, những người đã nhập vai những bậc thánh cách mạng và vai các ngôi sao dân chủ trong hai tháng trời có thể đánh giá lại một cách hợp lý, bình tâm, công bằng và thực tế những gì chúng ta đã làm và đã suy nghĩ trong năm 1989; tôi không biết liệu chúng ta có thể đối diện với hiện thực Trung Quốc đang có nhiều cuộc khủng hoảng xuất hiện từ khắp mọi phía mà thấy lòng mình còn đủ can đảm để theo đuổi kiên trì kế hoạch khả thi cho cải cách lâu dài bắt đầu từ những chi tiết nhỏ nhất. Nếu được như vậy, thì cho dù sức ta có tàn kiệt, máu của Ngày Bốn Tháng Sáu sẽ không chảy đi hoài phí- máu vẫn còn đặc hơn nước lã. Còn không được như vậy, thì cao nhất máu của Ngày Bốn Tháng Sáu sẽ có thể nuôi béo những kẻ hút máu chẳng còn biết xấu hổ.
Uớc gì Ngày Bốn Tháng Sáu là chính quyền cuối cùng của Trung Quốc trong đó mỗi người đều tự xem mình là chính khách.
Uớc gì Ngày Bốn Tháng Sáu là cảnh tượng hoành tráng của chính nghĩa mù quáng tự cho mình đúng cuối cùng của Trung Quốc.
Nguồn: Trích từ sách "Popular Protest and Political Culture in Modern China, Second Edition" edited by Jeffrey N. Wasserstrom anf Elizabeth J. Perry
Bài viết được lưu hành trên mạng ở địa chỉ: http://tsquare.tv/links/LiuXiaobo.html
1. Những cắt nghĩa rất tường tận nhưng rất khác về mặt cấu trúc đối với sự hiểu biết của Tây Phương về từ "cách mạng", và những cách hiểu này đã thay đổi theo thời gian. Xem Raymond Williams, Keywords: A Vocabulary of Culture and Society (Oxford: Oxford University Press, 1983), revised edition, pp. 270-274; Mona Ozouf, "Revolution," in François Furet and Mona Ozouf, eds., A Critical Dictionary of the French Revolution (Cambridge: Harvard University Press, 1989), pp. 806-817; and John Dunn, "Revolution," in Terrence Ball et al., eds., Political Innovation and Conceptual Change (Cambridge: Cambridge University Press, 1989), pp. 333-351. Ed.
2. Stephan T. Possony, ed., The Lenin Reader (Chicago: Henry Regnery, 1966), p. 349. Ed.
3. Xem Jonathan D. Spence, The Search for Modern China (New York: Norton, 1990), p. 726, mô tả ngắn gọn ý niệm về sự trung thành của Lưu Tân Nhạn. Đặc điểm chính của loại trung thành này là niềm tin rằng những người ủng hộ Đảng có thể nên chỉ trích những hành động sai trái cụ thể của các quan chức mà họ không bị xem là không trung thành; những sự chỉ trích như vậy, nhà báo này cho rằng, thực sự củng cố Đảng Cộng Sản Trung Quốc thay vì làm Đảng suy yếu.
4. Lưu Hồ Lan là em bé gái 14 tuổi. Quốc Dân Đảng hành hình em trước năm 1949. Em chết khá anh hùng. Mao Trạch Đông nói về em, " Sống vĩ đại ,chết vinh quang", sau đó kêu gọi cả nước học tập tinh thần cách mạng của em. Đổng Tồn Thuỵ là một người lính trẻ trong Quân Đội Giải Phóng. Tronh cuộc chiến tranh Giải Phóng, anh dùng thân mình làm khung đỡ cho chất nỗ trong một vụ tấn công vào nơi đóng quân Quốc Dân Đảng. Anh phá được lô cốt của quân đội Quốc Dân Đảng nhưng đã hy sinh. Sau năm 1949, có bộ phim tuyên dương chủ nghĩa anh hùng cách mạng Đổng Tồn Thuỵ.
5.Người kêu gọi hợp tác xã hội là người bạn tôi tên Chu Đạo. Năm 1989, khi chúng tôi cùng phác thảo " Tuyên Ngôn Tuyệt Thực Ngày Hai Tháng Sáu", ông chỉ ra rằng một trong những điểm chính của tuyên ngôn là lời kêu gọi chấm dứt thù địch và kêu gọi hoàn toàn ủng hộ sự hợp tác xã hội.
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
17.3.10
TRƯƠNG HOÀNH – TÔI LÀ NGƯỜI GÓP Ý ÔN HOÀ
Trần Quốc Việt dịch
Trương Hoành, đồng tác giả bài xã luận chung đề cập tới chế độ đăng ký hộ tịch được 13 tờ báo Trung Quốc cùng đăng đồng loạt vào tuần vừa qua, đã công bố một bức thư nhằm giải thích hoàn cảnh và suy tư của ông đằng sau việc đăng bài này mà khiến ông bị cách chức phó tổng biên tập tờ báo mạng Quan sát gia Kinh tế. Tờ Wall Street Journal đã dịch toàn văn bức thư ấy dưới đây.
Sau khi 13 tờ báo cùng đăng xã luận “Yêu cầu các đại biểu ở hai kỳ họp đẩy nhanh cải cách chế độ đăng ký hộ tịch,” những hậu quả nghiêm trọng xảy ra liền sau đó, và có rất nhiều điều phỏng đoán về câu chuyện thực đằng sau sự xuất hiện xã luận này. Là người trong cuộc, tôi thiết nghĩ cần thảo luận hoàn cảnh của sự kiện này qua một phương tiện truyền thông thích hợp, có thể tường thuật lại nội dung sự việc. Có người bình luận rằng sự kiện này nên đi vào lịch sử báo chí; bản thân tôi không nghĩ sự kiện này có ý nghĩa đến thế, nhưng vì ý thức bổn phận của mình đối với bạn đọc nên tôi muốn viết đôi lời giải thích.
Kế hoạch ban đầu được ấp ủ vào dạo năm ngoái khi tờ Quan sát gia Kinh tế hợp tác với tờ Guardian để đi một bài xã luận chung đề cập đến vấn đề thay đổi khí hậu, bài này đã được 56 tờ báo đăng. Vào thời điểm ấy, tôi chịu trách nhiệm liên lạc với tờ Guardian, thảo luận và dịch xã luận chung đó, nhờ thế tôi có được một sự hiểu biết khá sâu sắc về toàn bộ quá trình làm việc chung giữa các báo với nhau. Sau này chúng tôi nảy ra ý tưởng là liệu có thể đăng môt bài xã luận chung tương tự dành cho các báo trong nước.
Một đồng nghiệp khác gợi ý nên dùng vấn đề đăng ký hộ tịch làm tiêu điểm chung. Khi chọn vấn đề này làm chủ đề, điều quan trọng ta cần hiểu là cải cách hộ khẩu vốn đã đạt được những đột phá trên nhiều mặt, nhiều thành phố đang đẩy nhanh quá trình cải cách hộ khẩu, và thủ tướng Ôn Gia Bảo cùng các viên chức chính phủ trung ương cấp cao khác trong những lần xuất hiện công khai cũng đã bày tỏ quan điểm của họ về nghị trình cải cách này. Chúng tôi tin rằng việc đăng một xã luận về chủ đề hộ tịch sẽ hợp với đường lối cải cách của chính phủ Trung Quốc và cũng hợp với sự quan tâm rộng rãi trong nhân dân, và rằng rủi ro sẽ không cao lắm. Một số hãng thông tấn nước ngoài cho rằng lệnh đăng bài này có thể xuất phát từ các cấp cao trong chính quyền, nhưng thật ra hoàn toàn không phải như thế. Xã luận là công trình chung của một nhóm biên tập làm việc riêng với nhau, nhưng những sự xôn xao mà nó tạo ra vượt quá mong đợi ban đầu của chúng tôi.
Ngoài ra, chúng tôi quyết định chọn thời điểm đăng xã luận chung trùng với thời gian hai kỳ họp (của Quốc hội và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân đang diễn ra ở Bắc Kinh) để bày tỏ niềm mong muốn được tham gia của giới truyền thông vào quá trình cải cách chung của Trung Quốc. Nói thẳng ra, tôi đã sống 36 năm, nhưng chưa bao giờ biết đại biểu nào do tôi chọn, người có thể thay tôi đòi hỏi sự công bằng. Tôi nghĩ nhiều người chắc cũng có quan điểm như thế. Về vai trò của truyền thông, chúng tôi hy vọng rằng tiếng nói của quần chúng có thể được các đại biểu, người “đại diện công luận”, lắng nghe. Đây là một lập trường ôn hòa, nhưng điều như thế này lại hiếm khi được bày tỏ trực tiếp trong giới truyền thông trước đây.
Toàn bộ kế hoạch cho chuyên đề cải cách đăng ký hộ tịch gồm có bốn bước, trong đó trọng tâm chính là bài xã luận chung.
Bước đầu tiên: Vào ngày 26 tháng Giêng, tờ báo mạng Quan sát gia Kinh tế đăng một cuộc thăm dò ý kiến về cải cách đăng ký hộ tịch, kèm lời kêu gọi bạn đọc gởi bài về và một trang chuyên đề đặc biệt, và chúng tôi cũng đồng thời mời hai trang mạng khác tham gia. Đoạn văn mở đầu bài xã luận chung, “Trung Quốc đã nếm trải quá lâu bao cay đắng của chế độ đăng ký hộ tịch! Chúng tôi cho rằng mọi cá nhân khi sinh ra đời đều được tự do, khi sinh ra đời đều được có quyền tự do đi lại!” xuất hiện lần đầu tiên ở trong lời kêu gọi bạn đọc tham gia cuộc thăm dò của chúng tôi. Cuộc thăm dò trên mạng này đã được hưởng ứng nồng nhiệt, với hơn 3,500 người tham gia, đây quả là phi thường cho một trang mạng tầm cỡ tờ Quan sát gia Kinh tế.
Bước thứ hai: Vào ngày 22 tháng Hai chúng tôi cổ động cho một phụ trương trên báo có tựa đề Hộ khẩu Uất hận. Phụ trương này chủ yếu nhấn mạnh đến những trở ngại ngưòi dân gặp phải do chế độ đăng ký hộ tịch hiện nay và chúng tôi mời các chuyên gia tham gia thảo luận. Phụ trương này đã tạo tiếng vang rất lớn.
Bước thứ ba là quan trọng nhất: sắp xếp sao cho bài xã luận chung ra vào ngày 1 tháng Ba, cho trùng với thời điểm hai kỳ họp. Do Tết âm lịch nên việc chúng tôi mời các báo khác tham gia cùng hơi bị ảnh hưởng. Ban đầu chúng tôi dự kiến có hơn 20 tờ báo có thể tham gia. Bản thảo đầu tiên của xã luận này do một đồng nghiệp viết, và tôi nhận bản thảo để hoàn chỉnh lại vào ngày 7 tháng Hai. Tôi thực hiện những chỉnh sửa quan trọng và bài sau cùng xuất hiện trên báo phần lớn giống bản thảo này. Vào ngày 9 tháng Hai, sau khi tôi gởi bản thảo đã được hoàn chỉnh cho đồng nghiệp, anh gợi ý nên hoàn chỉnh thêm vài chỗ cho hợp với các điều khoản của hiến pháp (Trung Quốc), rồi chúng tôi có những thay đổi nhỏ về cách dùng từ dựa trên những phản hồi từ các báo khác. Tôi hiểu bài báo khá khích động, nhưng đấy chính là văn phong mà tôi luôn luôn thích dùng, tức là bình luận nên sắc bén. Vì chúng tôi đã quyết định đăng xã luận chung vào ngày 1 tháng Ba, nên sau khi các báo giấy được in xong, các báo mạng chính mới đăng bài xã luận chung vào sáng ngày 1 tháng Ba, và tờ Quan sát gia Kinh tế cũng cổ động xã luận là bài quan trọng nhất trong ngày hôm đó. Bài xã luận xuất hiện đồng loạt, và như thế chúng tôi đã phóng hoả đốt đồng.
Bước thứ tư là phần kết luận. Theo kế hoạch của mình, chúng tôi sẽ viết ít nhất hai bài báo sau khi đăng xã luận chung. Một bài là câu chuyện tin tức về xã luận chung, và bài kia giải thích về toàn bộ quá trình viết bản thảo đằng sau xã luận. Riêng tôi đã viết một bài bình luận khác vào buổi chiều hôm ấy có tựa đề “Báo chí không chỉ là nhân chứng: Tại sao chúng tôi đăng bài xã luận chung”; bài này đã đưọc đăng trên mạng. Đồng thời, chúng tôi cũng đã đăng một bài báo khác, “Bài Xã luận chung của 13 tờ báo về cải cách đăng ký hộ tịch khích lệ thảo luận sôi nổi”. Tuy nhiên, riêng bài báo theo như dự trù đề cập về quá trình viết bản thảo cho bài xã luận đã không đăng được do có một số vấn đề, điều này là tiếc nuối duy nhất trong toàn bộ kế hoạch của chúng tôi.
Sau khi bài xã luận chung được công bố, có thể nói, các phản ứng về bài này đã vượt xa những gì chúng tôi thoạt đầu tiên đoán. Chúng tôi tin chắc sẽ có một số phản hồi, nhưng không nghĩ sẽ tuyệt vời như vậy. Điều này khiến ta liên tưởng đến lời người xưa nói, “Khi đời vắng anh hùng, người thường có thể tạo danh.” Tôi không dám lấy công của người khác, nhưng tôi cũng không muốn đổ lỗi cho ai, vì thế tôi xoá hết tất cả tên của các báo và của các cá nhân tham gia vào bài xã luận này, chỉ để tên của chính mình vì tôi không có gì để mất. Thật ra, tất cả các bạn đọc đều hiểu rằng lý do bài xã luận chung này hấp dẫn sự quan tâm rộng rãi đến như thế không phải do báo chí quá mạnh, mà do báo chí thể hiện sự bồn chồn háo hức trong kỳ vọng của nhân dân.
Sau vụ này, tôi bị trừng phạt đích đáng; những đồng nghiệp và các bạn báo chí khác cũng cảm thấy bị liên lụy. Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, tôi cảm thấy mình có tội. Chúng ta không thể trách các báo về chuyện này, vì các báo đang đương đầu với những thế lực mà họ không thể nào chống lại được, và khi chúng ta hành động, chúng ta phải luôn nghĩ đến chuyện có nhiều người chúng ta cần phải bảo vệ sinh kế cho họ. Ở đây tôi muốn cảm ơn những người đã làm việc hăng say cùng với tôi.
Thế hệ cha tôi đã chịu đựng quá nhiều gian khổ vì chế độ đăng ký hộ tịch; nhiều người bạn của tôi và ngay cả thế hệ kế tiếp vẫn còn chịu rất nhiều đau khổ vì chế độ hộ khẩu này, họ vất vả không ngừng mà chẳng biết kêu thấu tới ai bao nỗi oan trái của mình. Tôi không phải là một chuyên gia, tôi không đưa ra một kế hoạch cải cách hoàn toàn, nhưng tôi có niềm tin vững chắc rằng luật lệ nào xem thường nhân phẩm và tự do của con người thì cuối cùng nhất định sẽ bị thải ra đống rác của lịch sử. Tôi hy vọng rằng chế độ hộ khẩu này cuối cùng phải bị xoá bỏ. Khi thời khắc đó đến, tôi tin nhiều người sẽ bật khóc vì mừng rỡ và họ sẽ chạy ùa ra đường để loan tin mừng. Là người làm báo, tôi chỉ có thể làm hết sức để làm tròn bổn phận và trách nhiệm của phần mình, và mỗi người trong chúng ta cũng nên gánh vác trách nhiệm và bổn phận của bản thân.
Tôi là người góp ý ôn hoà, là người đã vô tình khuấy động nên một sự tranh cãi lớn, dù diễn biến của hoàn cảnh nằm ngoài mọi mong đợi của tôi. Cuối cùng, tôi hy vọng mọi người sẽ nhớ điều này. Bây giờ tôi là nhà bình luận độc lập. Tôi chỉ hy vọng rằng bài viết của mình có thể giúp mọi người hiểu được trọn vẹn sự kiện này. Tôi cảm ơn các phản hồi của bạn, dù là ủng hộ hay chỉ trích.
Nguồn: http://blogs.wsj.com/chinarealtime/2010/03/09/i-am-a-moderate-adviser/
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Trương Hoành, đồng tác giả bài xã luận chung đề cập tới chế độ đăng ký hộ tịch được 13 tờ báo Trung Quốc cùng đăng đồng loạt vào tuần vừa qua, đã công bố một bức thư nhằm giải thích hoàn cảnh và suy tư của ông đằng sau việc đăng bài này mà khiến ông bị cách chức phó tổng biên tập tờ báo mạng Quan sát gia Kinh tế. Tờ Wall Street Journal đã dịch toàn văn bức thư ấy dưới đây.
Sau khi 13 tờ báo cùng đăng xã luận “Yêu cầu các đại biểu ở hai kỳ họp đẩy nhanh cải cách chế độ đăng ký hộ tịch,” những hậu quả nghiêm trọng xảy ra liền sau đó, và có rất nhiều điều phỏng đoán về câu chuyện thực đằng sau sự xuất hiện xã luận này. Là người trong cuộc, tôi thiết nghĩ cần thảo luận hoàn cảnh của sự kiện này qua một phương tiện truyền thông thích hợp, có thể tường thuật lại nội dung sự việc. Có người bình luận rằng sự kiện này nên đi vào lịch sử báo chí; bản thân tôi không nghĩ sự kiện này có ý nghĩa đến thế, nhưng vì ý thức bổn phận của mình đối với bạn đọc nên tôi muốn viết đôi lời giải thích.
Kế hoạch ban đầu được ấp ủ vào dạo năm ngoái khi tờ Quan sát gia Kinh tế hợp tác với tờ Guardian để đi một bài xã luận chung đề cập đến vấn đề thay đổi khí hậu, bài này đã được 56 tờ báo đăng. Vào thời điểm ấy, tôi chịu trách nhiệm liên lạc với tờ Guardian, thảo luận và dịch xã luận chung đó, nhờ thế tôi có được một sự hiểu biết khá sâu sắc về toàn bộ quá trình làm việc chung giữa các báo với nhau. Sau này chúng tôi nảy ra ý tưởng là liệu có thể đăng môt bài xã luận chung tương tự dành cho các báo trong nước.
Một đồng nghiệp khác gợi ý nên dùng vấn đề đăng ký hộ tịch làm tiêu điểm chung. Khi chọn vấn đề này làm chủ đề, điều quan trọng ta cần hiểu là cải cách hộ khẩu vốn đã đạt được những đột phá trên nhiều mặt, nhiều thành phố đang đẩy nhanh quá trình cải cách hộ khẩu, và thủ tướng Ôn Gia Bảo cùng các viên chức chính phủ trung ương cấp cao khác trong những lần xuất hiện công khai cũng đã bày tỏ quan điểm của họ về nghị trình cải cách này. Chúng tôi tin rằng việc đăng một xã luận về chủ đề hộ tịch sẽ hợp với đường lối cải cách của chính phủ Trung Quốc và cũng hợp với sự quan tâm rộng rãi trong nhân dân, và rằng rủi ro sẽ không cao lắm. Một số hãng thông tấn nước ngoài cho rằng lệnh đăng bài này có thể xuất phát từ các cấp cao trong chính quyền, nhưng thật ra hoàn toàn không phải như thế. Xã luận là công trình chung của một nhóm biên tập làm việc riêng với nhau, nhưng những sự xôn xao mà nó tạo ra vượt quá mong đợi ban đầu của chúng tôi.
Ngoài ra, chúng tôi quyết định chọn thời điểm đăng xã luận chung trùng với thời gian hai kỳ họp (của Quốc hội và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân đang diễn ra ở Bắc Kinh) để bày tỏ niềm mong muốn được tham gia của giới truyền thông vào quá trình cải cách chung của Trung Quốc. Nói thẳng ra, tôi đã sống 36 năm, nhưng chưa bao giờ biết đại biểu nào do tôi chọn, người có thể thay tôi đòi hỏi sự công bằng. Tôi nghĩ nhiều người chắc cũng có quan điểm như thế. Về vai trò của truyền thông, chúng tôi hy vọng rằng tiếng nói của quần chúng có thể được các đại biểu, người “đại diện công luận”, lắng nghe. Đây là một lập trường ôn hòa, nhưng điều như thế này lại hiếm khi được bày tỏ trực tiếp trong giới truyền thông trước đây.
Toàn bộ kế hoạch cho chuyên đề cải cách đăng ký hộ tịch gồm có bốn bước, trong đó trọng tâm chính là bài xã luận chung.
Bước đầu tiên: Vào ngày 26 tháng Giêng, tờ báo mạng Quan sát gia Kinh tế đăng một cuộc thăm dò ý kiến về cải cách đăng ký hộ tịch, kèm lời kêu gọi bạn đọc gởi bài về và một trang chuyên đề đặc biệt, và chúng tôi cũng đồng thời mời hai trang mạng khác tham gia. Đoạn văn mở đầu bài xã luận chung, “Trung Quốc đã nếm trải quá lâu bao cay đắng của chế độ đăng ký hộ tịch! Chúng tôi cho rằng mọi cá nhân khi sinh ra đời đều được tự do, khi sinh ra đời đều được có quyền tự do đi lại!” xuất hiện lần đầu tiên ở trong lời kêu gọi bạn đọc tham gia cuộc thăm dò của chúng tôi. Cuộc thăm dò trên mạng này đã được hưởng ứng nồng nhiệt, với hơn 3,500 người tham gia, đây quả là phi thường cho một trang mạng tầm cỡ tờ Quan sát gia Kinh tế.
Bước thứ hai: Vào ngày 22 tháng Hai chúng tôi cổ động cho một phụ trương trên báo có tựa đề Hộ khẩu Uất hận. Phụ trương này chủ yếu nhấn mạnh đến những trở ngại ngưòi dân gặp phải do chế độ đăng ký hộ tịch hiện nay và chúng tôi mời các chuyên gia tham gia thảo luận. Phụ trương này đã tạo tiếng vang rất lớn.
Bước thứ ba là quan trọng nhất: sắp xếp sao cho bài xã luận chung ra vào ngày 1 tháng Ba, cho trùng với thời điểm hai kỳ họp. Do Tết âm lịch nên việc chúng tôi mời các báo khác tham gia cùng hơi bị ảnh hưởng. Ban đầu chúng tôi dự kiến có hơn 20 tờ báo có thể tham gia. Bản thảo đầu tiên của xã luận này do một đồng nghiệp viết, và tôi nhận bản thảo để hoàn chỉnh lại vào ngày 7 tháng Hai. Tôi thực hiện những chỉnh sửa quan trọng và bài sau cùng xuất hiện trên báo phần lớn giống bản thảo này. Vào ngày 9 tháng Hai, sau khi tôi gởi bản thảo đã được hoàn chỉnh cho đồng nghiệp, anh gợi ý nên hoàn chỉnh thêm vài chỗ cho hợp với các điều khoản của hiến pháp (Trung Quốc), rồi chúng tôi có những thay đổi nhỏ về cách dùng từ dựa trên những phản hồi từ các báo khác. Tôi hiểu bài báo khá khích động, nhưng đấy chính là văn phong mà tôi luôn luôn thích dùng, tức là bình luận nên sắc bén. Vì chúng tôi đã quyết định đăng xã luận chung vào ngày 1 tháng Ba, nên sau khi các báo giấy được in xong, các báo mạng chính mới đăng bài xã luận chung vào sáng ngày 1 tháng Ba, và tờ Quan sát gia Kinh tế cũng cổ động xã luận là bài quan trọng nhất trong ngày hôm đó. Bài xã luận xuất hiện đồng loạt, và như thế chúng tôi đã phóng hoả đốt đồng.
Bước thứ tư là phần kết luận. Theo kế hoạch của mình, chúng tôi sẽ viết ít nhất hai bài báo sau khi đăng xã luận chung. Một bài là câu chuyện tin tức về xã luận chung, và bài kia giải thích về toàn bộ quá trình viết bản thảo đằng sau xã luận. Riêng tôi đã viết một bài bình luận khác vào buổi chiều hôm ấy có tựa đề “Báo chí không chỉ là nhân chứng: Tại sao chúng tôi đăng bài xã luận chung”; bài này đã đưọc đăng trên mạng. Đồng thời, chúng tôi cũng đã đăng một bài báo khác, “Bài Xã luận chung của 13 tờ báo về cải cách đăng ký hộ tịch khích lệ thảo luận sôi nổi”. Tuy nhiên, riêng bài báo theo như dự trù đề cập về quá trình viết bản thảo cho bài xã luận đã không đăng được do có một số vấn đề, điều này là tiếc nuối duy nhất trong toàn bộ kế hoạch của chúng tôi.
Sau khi bài xã luận chung được công bố, có thể nói, các phản ứng về bài này đã vượt xa những gì chúng tôi thoạt đầu tiên đoán. Chúng tôi tin chắc sẽ có một số phản hồi, nhưng không nghĩ sẽ tuyệt vời như vậy. Điều này khiến ta liên tưởng đến lời người xưa nói, “Khi đời vắng anh hùng, người thường có thể tạo danh.” Tôi không dám lấy công của người khác, nhưng tôi cũng không muốn đổ lỗi cho ai, vì thế tôi xoá hết tất cả tên của các báo và của các cá nhân tham gia vào bài xã luận này, chỉ để tên của chính mình vì tôi không có gì để mất. Thật ra, tất cả các bạn đọc đều hiểu rằng lý do bài xã luận chung này hấp dẫn sự quan tâm rộng rãi đến như thế không phải do báo chí quá mạnh, mà do báo chí thể hiện sự bồn chồn háo hức trong kỳ vọng của nhân dân.
Sau vụ này, tôi bị trừng phạt đích đáng; những đồng nghiệp và các bạn báo chí khác cũng cảm thấy bị liên lụy. Mỗi khi nghĩ đến chuyện này, tôi cảm thấy mình có tội. Chúng ta không thể trách các báo về chuyện này, vì các báo đang đương đầu với những thế lực mà họ không thể nào chống lại được, và khi chúng ta hành động, chúng ta phải luôn nghĩ đến chuyện có nhiều người chúng ta cần phải bảo vệ sinh kế cho họ. Ở đây tôi muốn cảm ơn những người đã làm việc hăng say cùng với tôi.
Thế hệ cha tôi đã chịu đựng quá nhiều gian khổ vì chế độ đăng ký hộ tịch; nhiều người bạn của tôi và ngay cả thế hệ kế tiếp vẫn còn chịu rất nhiều đau khổ vì chế độ hộ khẩu này, họ vất vả không ngừng mà chẳng biết kêu thấu tới ai bao nỗi oan trái của mình. Tôi không phải là một chuyên gia, tôi không đưa ra một kế hoạch cải cách hoàn toàn, nhưng tôi có niềm tin vững chắc rằng luật lệ nào xem thường nhân phẩm và tự do của con người thì cuối cùng nhất định sẽ bị thải ra đống rác của lịch sử. Tôi hy vọng rằng chế độ hộ khẩu này cuối cùng phải bị xoá bỏ. Khi thời khắc đó đến, tôi tin nhiều người sẽ bật khóc vì mừng rỡ và họ sẽ chạy ùa ra đường để loan tin mừng. Là người làm báo, tôi chỉ có thể làm hết sức để làm tròn bổn phận và trách nhiệm của phần mình, và mỗi người trong chúng ta cũng nên gánh vác trách nhiệm và bổn phận của bản thân.
Tôi là người góp ý ôn hoà, là người đã vô tình khuấy động nên một sự tranh cãi lớn, dù diễn biến của hoàn cảnh nằm ngoài mọi mong đợi của tôi. Cuối cùng, tôi hy vọng mọi người sẽ nhớ điều này. Bây giờ tôi là nhà bình luận độc lập. Tôi chỉ hy vọng rằng bài viết của mình có thể giúp mọi người hiểu được trọn vẹn sự kiện này. Tôi cảm ơn các phản hồi của bạn, dù là ủng hộ hay chỉ trích.
Nguồn: http://blogs.wsj.com/chinarealtime/2010/03/09/i-am-a-moderate-adviser/
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
3.3.10
TẠI SAO TRUNG QUỐC RẤT SỢ BẤT ĐỒNG CHÍNH KIẾN
Peter Beaumont
Trần Quốc Việt dịch
Ở Trung Quốc có câu nói: "Giết gà trước khỉ." Câu nói này có nghĩa là đánh vào những kẻ yếu và dễ bị tổn thương để những kẻ mạnh và đám đông thấy sợ.
Tuần qua, lại đến lượt nhà văn Triệu Sử Anh, tổng thư ký của Trung Tâm Văn Bút Trung Quốc Độc Lập, một tổ chức vận động thay mặt cho những nhà văn đang bị tù và ủng hộ tự do ngôn luận.
Ông Triệu là người đã ký tên, cùng với Lưu Hiểu Ba, nhà bất đồng chính kiến hàng đầu đã bị kết án tù 11 năm vào ngày lễ Giáng Sinh, vào Hiến Chương 08, một văn bản kêu gọi cải cách các thể chế nhà nước của Trung Quốc về mặt chính trị. Vào ngày thứ Hai, công an đến nhà ông ở thành phố Thẩm Dương thuộc miền nam, gần Hồng Kông, để giải ông đi, cùng với các máy tính, sách và những tài liệu khác của ông.
Đây là lần thứ hai công an đến nhà ông. Lần đầu vào tháng Chạp, họ đã đến và cảnh cáo ông không được gây rối; lần này, sau khi ông bị bắt, vẫn lời đe doạ này họ răn đe vợ ông, bà Sử Tiểu Lợi, và người con lớn. Và tuy bà Sử đã bị công an cảnh cáo không được nói với ai về chuyện chồng bị bắt giam, nhưng bà đã thách thức họ hôm thứ Sáu. " Các nhân viên an ninh nhà nước đang giữ ông ấy đấy," bà khẳng định. " Chưa bao giờ nhà tôi bị bắt giam lâu bằng lần này."
Không chỉ mình ông Triệu bị áp lực vì đã vận động yêu cầu thả Lưu Hiểu Ba. Sau khi kết án ông Lưu về tội "lật đổ nhà nước" qua việc khởi thảo Hiến Chương 08, nhà cầm quyền Trung Quốc dường như đã tiến hành một chiến dịch với cường độ ngày càng gia tăng nhằm chống lại các nhà hoạt động dân chủ và các nhóm nhân quyền mà, theo lời các nhóm này, bất ngờ có vẻ có nguy cơ làm sụp đổ sự đồng thuận mỏng manh ở trong nước để cho phép một mức độ bất đồng chính kiến hạn chế ở dưới mức sự tổ chức về chính trị thách thức thực trạng một đảng.
Thay vào đó, theo Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, trong năm qua nhà cầm quyền Trung Quốc đã gia tăng gây sức ép với các nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng, và trong mấy tháng vừa qua đã chứng kiến cảnh họ " bị bắt giam hàng loạt."
Chỉ riêng tuần qua không những chứng kiến vụ bắt giam ông Triệu, mà còn cả đến sự tiết lộ của Google rằng các tin tặc Trung Quốc, nhiều người tin là hoạt động theo lệnh của nhà nước, đã nhắm vào, dù đây không phải là lần đầu tiên, các hộp điện thư của các nhà hoạt động nhân quyền, trong đó có hộp điện thư của Tenzin Seldon, một sinh viên Mỹ 20 tuổi có cha mẹ là người Tây Tạng lưu vong. Nghiêm trọng nhất là lời tuyên bố của nhà cầm quyền rằng ông Cao Trí Thịnh, một luật sư nhân quyền nổi tiếng vốn đã bị giam giữ trong 11 tháng, đã "mất tích" trong lúc đi dạo. Tin này đã khiến những người ủng hộ ông e sợ rằng ông có thể bị chết ở trong tù.
Tất cả những điều kể trên làm bật lên một câu hỏi rất quan trọng là tại sao Trung Quốc, một siêu cường đang ló dạng, lại quá sợ bất đồng chính kiến?
Đây cũng chính là câu hỏi đã được nêu ra trong một bài viết vào đầu tháng này của sử gia Ian Buruma khi bàn về nguyên nhân tại sao một chế độ, dù cộng sản chỉ còn là cái tên, và rõ ràng rất mạnh, cũng lại rất hoang tưởng.
Câu trả lời của Buruma là người ta chỉ có thể hiểu được lập trường kiên trì về tính chính thống của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong những điều kiện về văn hoá và lịch sử, trong đó có bao gồm điều ông diễn tả là "khái niệm chính trị có tính chất tôn giáo....một niềm tin chung do bên trên áp đặt xuống" qua đó phản ánh ý niệm hài hoà của Khổng giáo. Tuy nhiên, những người khác lại thấy sự kiên trì ấy như là một phản ứng đối với những gì đang diễn ra bên trong Trung Quốc ngày nay hơn là thấy nó trong những điều kiện lịch sử.
Điều này đã được ông Bảo Đồng, một trong những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất của Trung Quốc, trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Wall Street Journal vào mùa hè vừa qua, cắt nghĩa trong mối quan hệ với cuộc thảm sát Thiên An Môn cách đây 20 năm.
Là một cựu trợ lý chính trị cho tổng bí thư Triệu Tử Dương, ông Bảo đã ở tù bảy năm và hiện vẫn còn bị quản chế tại gia. "Thiên An Môn vẫn còn đây," ông nói trong cuộc phỏng vấn vào lúc đó. " Tuy nhiên, đây không phải là cuộc thảm sát Thiên An Môn; đây là sự trấn áp theo kiểu một "tiểu Thiên An Môn". Cứ bốn phút lại có một cuộc biểu tình với hơn 100 người tham gia."
Những cuộc biểu tình này liên quan đến mọi vấn đề trong xã hội: về tham nhũng trong chính quyền; về thu hồi đất; ô nhiễm môi trường; nạn công an bạo hành; và trường học. Cho dù phân tán và thiếu tổ chức, những cuộc biểu tình này thể hiện tình hình ở cơ sở ngày càng sôi động, bao gồm những nhóm như "phong trào bảo vệ quyền " và được đại diện bởi những người như Cao Trí Thịnh, hay luật sư đồng nghiệp Quách Phi Hùng, người bị ở tù vì đại diện cho những người dân làng Thái Thạch, tỉnh Quảng Đông, khi họ muốn truất phế các viên chức địa phương bị tố cáo tham nhũng.
Điều này cũng thấy rõ qua các cuộc biểu tình lớn gần đây về môi trường mà có cả xuống đường và "tuần hành tập thể" về các vấn đề khác nhau từ quyết định địa điểm xây các nhà máy dược phẩm đến làm tuyến đường xe lửa ở Thượng Hải.
Nhưng, theo các nhà phân tích và các nhà hoạt động nhân quyền, điều mà Đảng Cộng Sản sợ nhất là rằng các nhà bất đồng chính kiến trong giới trí thức ở trong nước có thể hành động không chỉ là một điểm đến cho vô vàn các ưu tư về xã hội bằng cách thách thức tính hợp pháp của các thể chế nhà nước, mà họ còn tạo ra một tổ chức để tập hợp người dân lại.
Đây không phải là mối lo ngại hoàn toàn mới. Chính sự lo lắng này đã khiến Đặng Tiểu Bình ra lệnh thiết quân lực trong năm 1989 nhằm chống lại các sinh viên xuống đường ở Thiên An Môn và cũng khiến họ trấn áp giáo phái Pháp Luân Công sau khi giáo phái này tổ chức những cuộc biểu tình im lặng vào cuối những năm 1990.
Nhưng những gì được coi là "có tổ chức", và như thế là đe doạ nhà nước, đã lại trở nên càng cụ thể tinh tế hơn trong năm vừa qua để bao gồm thậm chí cả kiến nghị trên mạng của Lưu Hiểu Ba tức Hiến Chương 08.
Bà Corinna-Barbara Francis, một chuyên gia về Trung Quốc cho tổ chức Ân Xá Quốc Tế, mô tả những cố gắng thường không khéo tính toán của các nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc để đi theo lề phải của chế độ.
"Người ta phải hiểu có những lằn ranh không thể vượt qua được. Lưu Hiểu Ba đã cố gắng đi theo sát mép lề phải của những lằn ranh này nhưng Hiến Chương 08 đã đẩy ông qua phía bên kia. Nhưng cho dù như vậy bản án họ dành cho ông vẫn khiến ta sững sờ."
Nhà cầm quyền Trung Quốc thích suy diễn bản kiến nghị Hiến Chương 08 ra thành không chỉ là lời tuyên bố phê phán chế độ mà còn là bằng chứng về " tổ chức" chống lại nhà nước.
" Vì thế," bà Francis cho biết " Trong năm qua Trung Quốc đã thật sự tăng mức án tội này."
Những người ủng hộ ông Lưu đều nghĩ ông chịu án cao nhất là ba năm tù, nhưng bản án 11 năm tại Nhà Tù Trung Ưong Số 1 là ngang bằng với các bản án dành cho các thành viên đảng Dân Chủ Trung Quốc, được thành lập vào năm 1998, những người này bị chế độ trừng phạt nặng vì lập ra đảng chính trị khác.
Nhưng tại sao ông Lưu, 54 tuổi, đã bị đối xử khắc nghiệt như vây, và người ta nhìn thấy được mức độ sợ hãi về internet của nhà cầm quyền qua lời phán quyết do Toà Án Nhân Dân Trung Cấp Thứ Nhất Thành Phố Bắc Kinh đưa ra. Ở đấy, được trình bày bằng ngôn ngữ trấn áp mang tính quan liêu, chứa đựng toàn bộ những lo lắng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc: nào là cấu kết, nào là tổ chức chống Đảng và nào là tuyên truyền ra bên ngoài biên giới những chuyện phê phán Trung Quốc.
" Trong khoảng thời gian từ tháng Chín đến tháng Mười Hai năm 2008," theo phán quyết đọc ở toà, " bị cáo Lưu Hiểu Ba đã cấu kết với những kẻ khác để lập mưu phác thảo ra "Hiến Chương 08", trong đó đưa ra những quan điểm như "xoá bỏ độc quyền của một đảng về thực thi quyền lực chính trị", " thành lập một liên hiệp Trung Quốc theo khuôn khổ của một hệ thống chính quyền dân chủ lập hiến", tìm cách khích động lật đổ quyền lực nhà nước. Lưu Hiểu Ba đã thu thập chữ ký của hơn 300 người rồi gởi "Hiến Chương 08" kèm theo các chữ ký này trong một điện thư đến những trang mạng nằm bên ngoài biên giới của Trung Quốc lục địa, để công bố trên những trang mạng nằm bên ngoài biên giới của Trung Quốc lục địa chẳng hạn như trang " Trung Quốc Dân Chủ" và trang " Hội Văn Bút Trung Quốc Độc Lập."
"Đảng Cộng Sản đã giữ độc quyền về quyền lực trong suốt 60 năm qua," Ông Pelim Kine, nhà nghiên cứu cho Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền có trụ sở tại New York cho biết. " Tất cả những gì Đảng làm thảy đều toàn tâm toàn trí hướng đến sự nắm chắc lấy quyền lực. Đảng đã theo dõi và học được những bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và từ các cuộc cách mạng màu và quyết tâm không không đi theo con đường định mệnh ấy. Họ đã thấy sự cần thiết phải kiểm soát những chuyện bên trong biên giới nước họ. Nhưng họ cũng nhận thức rằng họ không thể nào giống như Bắc Hàn là đóng kín cửa cả nước lại được. Vì vậy họ tạo ra một mô hình trong đó đảng kiểm soát, nhưng vẫn cung cấp một mức độ phát triễn kinh tế và các quyền về kinh tế. Cái giá phải trả là sự kiểm soát tự do ngôn luận và các nhân quyền khác."
Và mặc dù nhiều người Trung Quốc đã chấp nhận sự đổi chác này và từ đó tỏ vẻ khó hiểu trước những gì họ coi là nổi ám ảnh của phương tây về một số ít các nhà bất đồng chính kiến, nhưng đối với một đảng Cộng Sản Trung Quốc mà đã vất bỏ từ lâu hầu hết các phương diện của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa để ủng hộ tự do hoá về kinh tế thì mối đe doạ theo cảm nhận của họ về bất đồng chính kiến đã không giảm đi mà còn tăng thêm.
Một lý do, một số các nhà phân tích tin, là qua sự phân phát rộng rãi một ý thức hệ Mác xít chỉ đạo, các thể chế của Đảng đã được ban cho các giá trị và ý nghĩa đạo đức, ít nhất theo chính tiêu chuẩn của Đảng, và cũng chính các thể chế này đã trở nên dễ bị tổn thương trước một dường lối chỉ trích mà chất vấn tính hợp pháp các thể chế này hiện đang có.
Kết quả là, theo lời những người như ông Bảo Đồng, hiện nay ít có tự do chỉ trích những nhà lãnh đạo đảng hơn là trong thời điểm năm 1989, cho dù ngay cả trong nội bộ của chính các cán bộ đảng cao cấp hiện có nhóm, gọi là "đảng nội dân chủ phái", ủng hộ tự do hoá hơn về chính trị nhưng họ cốt yếu giới hạn sự thảo luận chính trị chỉ riêng trong nội bộ đảng.
Và nếu có sự khác biệt giữa phong trào dân chủ 1989 và Hiến Chương 08, mà ba người khởi thảo chính ra Hiến Chương này lại trưởng thành từ phong trào đó, chính là ở điểm này. Mặc dù những biến cố quanh Thiên An Môn đã tạo ra những cuộc biểu tình khổng lồ, song người ta đã không thấy sự xuất hiện một văn bản nào đưa ra các yêu cầu chính trị rõ ràng. So với Thiên An Môn, như sử gia Phong Sùng Nghĩa nhận xét trong một bài viết cho tờ Asia-Pacific Journal, những người khởi thảo ra Hiến Chương 08 rõ ràng đã náo nức chấp nhận nền dân chủ mở rộng, đồng thời cũng báo hiệu việc họ phủ nhận nền chuyên chính độc đảng, đây thực là ý tưởng phi chính thống quan trọng nhất.
Ông Kine tin việc tống giam ông Lưu, và sự truy bức ngày càng tăng đối với những người ủng hộ ông đang đánh dấu một sự hội tụ của nhiều vấn đề mà khiến đảng Cộng Sản sợ hãi: từ chuyện sử dụng internet trong vụ Hiến Chương 08 đến sự xuất hiện của ông Lưu, dưới mắt họ, như là một lãnh tụ bất đồng chính kiến qua việc ông tổ chức thành công bản kiến nghị.
"Đảng Cộng Sản biết tiến hoá và biết thích nghi. Đảng không còn bắn người dân trên đường phố. Đảng trấn áp (những nhân vật như Lưu Hiểu Ba) để làm cho các nhà bất đồng chính kiến và giai cấp trung lưu còn non trẻ sợ hãi," ông Kine nói.
Vì thế mặc dù ông Kine tin rằng Trung Quốc có lẽ thích hơn nếu các vụ tấn công tin tặc nhắm vào các hộp thư của các nhà hoạt đông dân quyền vẫn chưa bị khám phá, nhưng sự tiết lộ của đại công ty internet vẫn có ảnh hưởng tương tự như ảnh hưởng từ vụ án ông Lưu, tức là buộc giới luật sư và những người viết blog cũng như các nhà hoạt động khác phải suy nghĩ lại cách thức họ liên lạc lẫn nhau.
Nhà cầm quyền càng ngày càng sử dụng đến chính cách đe dọa này, tức tội " lật đổ nhà nước", để chống lại những ai họ đã kết luận chính thức là đã vượt qua "lằn ranh vô hình" về tự do ngôn luận và về bất đồng chính kiến.
Một người khác bị ở tù như ông Lưu về tội "kích động lật đổ quyền lực nhà nước " là Hồ Giai, người đã lãnh đạo các cuộc biểu tình chống lại nạn phá rừng ở miền bắc Trung Quốc trước khi trở thành nhà hoạt động nhân quyền. Ônh Hồ bị kết án ba năm rưỡi tù vào năm 2008 cũng cùng tội danh này.
Lật đổ, theo cách hiểu thời nay của chế độ, như lời bà Corinna-Barbara Francis, là " bất kỳ điều gì khiến người dân chất vấn sự độc quyền về quyền lực của đảng. Bất chấp những thành tựu về kinh tế, đảng vẫn cương quyết chống lại các cải cách về chính trị. Đảng vẫn muốn mình tiếp tục nắm quyền lực nên không muốn chia sẽ quyền lực với bất kỳ ai."
"Vì thế hiện nay điều mà tầng lớp nắm quyền cao nhất trong đảng sợ là điều họ đã từng sợ vào năm 1989, tức là các nhà trí thức biết đâu có thể khích lệ nên một phong trào bất đồng chính kiến chống đảng rộng lớn hơn trong quần chúng."
Vì thế, gà phải tiếp tục xếp hàng ra pháp trường.
Peter Beaumont là biên tập viên ngoại vụ của tờ The Observer.
Nguồn: Guardian ngày 17 tháng Giêng năm 2010
http://www.guardian.co.uk/world/2010/jan/17/china-terrified-dissent-dissident-chinese
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Trần Quốc Việt dịch
Ở Trung Quốc có câu nói: "Giết gà trước khỉ." Câu nói này có nghĩa là đánh vào những kẻ yếu và dễ bị tổn thương để những kẻ mạnh và đám đông thấy sợ.
Tuần qua, lại đến lượt nhà văn Triệu Sử Anh, tổng thư ký của Trung Tâm Văn Bút Trung Quốc Độc Lập, một tổ chức vận động thay mặt cho những nhà văn đang bị tù và ủng hộ tự do ngôn luận.
Ông Triệu là người đã ký tên, cùng với Lưu Hiểu Ba, nhà bất đồng chính kiến hàng đầu đã bị kết án tù 11 năm vào ngày lễ Giáng Sinh, vào Hiến Chương 08, một văn bản kêu gọi cải cách các thể chế nhà nước của Trung Quốc về mặt chính trị. Vào ngày thứ Hai, công an đến nhà ông ở thành phố Thẩm Dương thuộc miền nam, gần Hồng Kông, để giải ông đi, cùng với các máy tính, sách và những tài liệu khác của ông.
Đây là lần thứ hai công an đến nhà ông. Lần đầu vào tháng Chạp, họ đã đến và cảnh cáo ông không được gây rối; lần này, sau khi ông bị bắt, vẫn lời đe doạ này họ răn đe vợ ông, bà Sử Tiểu Lợi, và người con lớn. Và tuy bà Sử đã bị công an cảnh cáo không được nói với ai về chuyện chồng bị bắt giam, nhưng bà đã thách thức họ hôm thứ Sáu. " Các nhân viên an ninh nhà nước đang giữ ông ấy đấy," bà khẳng định. " Chưa bao giờ nhà tôi bị bắt giam lâu bằng lần này."
Không chỉ mình ông Triệu bị áp lực vì đã vận động yêu cầu thả Lưu Hiểu Ba. Sau khi kết án ông Lưu về tội "lật đổ nhà nước" qua việc khởi thảo Hiến Chương 08, nhà cầm quyền Trung Quốc dường như đã tiến hành một chiến dịch với cường độ ngày càng gia tăng nhằm chống lại các nhà hoạt động dân chủ và các nhóm nhân quyền mà, theo lời các nhóm này, bất ngờ có vẻ có nguy cơ làm sụp đổ sự đồng thuận mỏng manh ở trong nước để cho phép một mức độ bất đồng chính kiến hạn chế ở dưới mức sự tổ chức về chính trị thách thức thực trạng một đảng.
Thay vào đó, theo Tổ Chức Ân Xá Quốc Tế, trong năm qua nhà cầm quyền Trung Quốc đã gia tăng gây sức ép với các nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng, và trong mấy tháng vừa qua đã chứng kiến cảnh họ " bị bắt giam hàng loạt."
Chỉ riêng tuần qua không những chứng kiến vụ bắt giam ông Triệu, mà còn cả đến sự tiết lộ của Google rằng các tin tặc Trung Quốc, nhiều người tin là hoạt động theo lệnh của nhà nước, đã nhắm vào, dù đây không phải là lần đầu tiên, các hộp điện thư của các nhà hoạt động nhân quyền, trong đó có hộp điện thư của Tenzin Seldon, một sinh viên Mỹ 20 tuổi có cha mẹ là người Tây Tạng lưu vong. Nghiêm trọng nhất là lời tuyên bố của nhà cầm quyền rằng ông Cao Trí Thịnh, một luật sư nhân quyền nổi tiếng vốn đã bị giam giữ trong 11 tháng, đã "mất tích" trong lúc đi dạo. Tin này đã khiến những người ủng hộ ông e sợ rằng ông có thể bị chết ở trong tù.
Tất cả những điều kể trên làm bật lên một câu hỏi rất quan trọng là tại sao Trung Quốc, một siêu cường đang ló dạng, lại quá sợ bất đồng chính kiến?
Đây cũng chính là câu hỏi đã được nêu ra trong một bài viết vào đầu tháng này của sử gia Ian Buruma khi bàn về nguyên nhân tại sao một chế độ, dù cộng sản chỉ còn là cái tên, và rõ ràng rất mạnh, cũng lại rất hoang tưởng.
Câu trả lời của Buruma là người ta chỉ có thể hiểu được lập trường kiên trì về tính chính thống của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong những điều kiện về văn hoá và lịch sử, trong đó có bao gồm điều ông diễn tả là "khái niệm chính trị có tính chất tôn giáo....một niềm tin chung do bên trên áp đặt xuống" qua đó phản ánh ý niệm hài hoà của Khổng giáo. Tuy nhiên, những người khác lại thấy sự kiên trì ấy như là một phản ứng đối với những gì đang diễn ra bên trong Trung Quốc ngày nay hơn là thấy nó trong những điều kiện lịch sử.
Điều này đã được ông Bảo Đồng, một trong những nhà bất đồng chính kiến nổi tiếng nhất của Trung Quốc, trong cuộc phỏng vấn dành cho tờ Wall Street Journal vào mùa hè vừa qua, cắt nghĩa trong mối quan hệ với cuộc thảm sát Thiên An Môn cách đây 20 năm.
Là một cựu trợ lý chính trị cho tổng bí thư Triệu Tử Dương, ông Bảo đã ở tù bảy năm và hiện vẫn còn bị quản chế tại gia. "Thiên An Môn vẫn còn đây," ông nói trong cuộc phỏng vấn vào lúc đó. " Tuy nhiên, đây không phải là cuộc thảm sát Thiên An Môn; đây là sự trấn áp theo kiểu một "tiểu Thiên An Môn". Cứ bốn phút lại có một cuộc biểu tình với hơn 100 người tham gia."
Những cuộc biểu tình này liên quan đến mọi vấn đề trong xã hội: về tham nhũng trong chính quyền; về thu hồi đất; ô nhiễm môi trường; nạn công an bạo hành; và trường học. Cho dù phân tán và thiếu tổ chức, những cuộc biểu tình này thể hiện tình hình ở cơ sở ngày càng sôi động, bao gồm những nhóm như "phong trào bảo vệ quyền " và được đại diện bởi những người như Cao Trí Thịnh, hay luật sư đồng nghiệp Quách Phi Hùng, người bị ở tù vì đại diện cho những người dân làng Thái Thạch, tỉnh Quảng Đông, khi họ muốn truất phế các viên chức địa phương bị tố cáo tham nhũng.
Điều này cũng thấy rõ qua các cuộc biểu tình lớn gần đây về môi trường mà có cả xuống đường và "tuần hành tập thể" về các vấn đề khác nhau từ quyết định địa điểm xây các nhà máy dược phẩm đến làm tuyến đường xe lửa ở Thượng Hải.
Nhưng, theo các nhà phân tích và các nhà hoạt động nhân quyền, điều mà Đảng Cộng Sản sợ nhất là rằng các nhà bất đồng chính kiến trong giới trí thức ở trong nước có thể hành động không chỉ là một điểm đến cho vô vàn các ưu tư về xã hội bằng cách thách thức tính hợp pháp của các thể chế nhà nước, mà họ còn tạo ra một tổ chức để tập hợp người dân lại.
Đây không phải là mối lo ngại hoàn toàn mới. Chính sự lo lắng này đã khiến Đặng Tiểu Bình ra lệnh thiết quân lực trong năm 1989 nhằm chống lại các sinh viên xuống đường ở Thiên An Môn và cũng khiến họ trấn áp giáo phái Pháp Luân Công sau khi giáo phái này tổ chức những cuộc biểu tình im lặng vào cuối những năm 1990.
Nhưng những gì được coi là "có tổ chức", và như thế là đe doạ nhà nước, đã lại trở nên càng cụ thể tinh tế hơn trong năm vừa qua để bao gồm thậm chí cả kiến nghị trên mạng của Lưu Hiểu Ba tức Hiến Chương 08.
Bà Corinna-Barbara Francis, một chuyên gia về Trung Quốc cho tổ chức Ân Xá Quốc Tế, mô tả những cố gắng thường không khéo tính toán của các nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc để đi theo lề phải của chế độ.
"Người ta phải hiểu có những lằn ranh không thể vượt qua được. Lưu Hiểu Ba đã cố gắng đi theo sát mép lề phải của những lằn ranh này nhưng Hiến Chương 08 đã đẩy ông qua phía bên kia. Nhưng cho dù như vậy bản án họ dành cho ông vẫn khiến ta sững sờ."
Nhà cầm quyền Trung Quốc thích suy diễn bản kiến nghị Hiến Chương 08 ra thành không chỉ là lời tuyên bố phê phán chế độ mà còn là bằng chứng về " tổ chức" chống lại nhà nước.
" Vì thế," bà Francis cho biết " Trong năm qua Trung Quốc đã thật sự tăng mức án tội này."
Những người ủng hộ ông Lưu đều nghĩ ông chịu án cao nhất là ba năm tù, nhưng bản án 11 năm tại Nhà Tù Trung Ưong Số 1 là ngang bằng với các bản án dành cho các thành viên đảng Dân Chủ Trung Quốc, được thành lập vào năm 1998, những người này bị chế độ trừng phạt nặng vì lập ra đảng chính trị khác.
Nhưng tại sao ông Lưu, 54 tuổi, đã bị đối xử khắc nghiệt như vây, và người ta nhìn thấy được mức độ sợ hãi về internet của nhà cầm quyền qua lời phán quyết do Toà Án Nhân Dân Trung Cấp Thứ Nhất Thành Phố Bắc Kinh đưa ra. Ở đấy, được trình bày bằng ngôn ngữ trấn áp mang tính quan liêu, chứa đựng toàn bộ những lo lắng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc: nào là cấu kết, nào là tổ chức chống Đảng và nào là tuyên truyền ra bên ngoài biên giới những chuyện phê phán Trung Quốc.
" Trong khoảng thời gian từ tháng Chín đến tháng Mười Hai năm 2008," theo phán quyết đọc ở toà, " bị cáo Lưu Hiểu Ba đã cấu kết với những kẻ khác để lập mưu phác thảo ra "Hiến Chương 08", trong đó đưa ra những quan điểm như "xoá bỏ độc quyền của một đảng về thực thi quyền lực chính trị", " thành lập một liên hiệp Trung Quốc theo khuôn khổ của một hệ thống chính quyền dân chủ lập hiến", tìm cách khích động lật đổ quyền lực nhà nước. Lưu Hiểu Ba đã thu thập chữ ký của hơn 300 người rồi gởi "Hiến Chương 08" kèm theo các chữ ký này trong một điện thư đến những trang mạng nằm bên ngoài biên giới của Trung Quốc lục địa, để công bố trên những trang mạng nằm bên ngoài biên giới của Trung Quốc lục địa chẳng hạn như trang " Trung Quốc Dân Chủ" và trang " Hội Văn Bút Trung Quốc Độc Lập."
"Đảng Cộng Sản đã giữ độc quyền về quyền lực trong suốt 60 năm qua," Ông Pelim Kine, nhà nghiên cứu cho Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền có trụ sở tại New York cho biết. " Tất cả những gì Đảng làm thảy đều toàn tâm toàn trí hướng đến sự nắm chắc lấy quyền lực. Đảng đã theo dõi và học được những bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô và từ các cuộc cách mạng màu và quyết tâm không không đi theo con đường định mệnh ấy. Họ đã thấy sự cần thiết phải kiểm soát những chuyện bên trong biên giới nước họ. Nhưng họ cũng nhận thức rằng họ không thể nào giống như Bắc Hàn là đóng kín cửa cả nước lại được. Vì vậy họ tạo ra một mô hình trong đó đảng kiểm soát, nhưng vẫn cung cấp một mức độ phát triễn kinh tế và các quyền về kinh tế. Cái giá phải trả là sự kiểm soát tự do ngôn luận và các nhân quyền khác."
Và mặc dù nhiều người Trung Quốc đã chấp nhận sự đổi chác này và từ đó tỏ vẻ khó hiểu trước những gì họ coi là nổi ám ảnh của phương tây về một số ít các nhà bất đồng chính kiến, nhưng đối với một đảng Cộng Sản Trung Quốc mà đã vất bỏ từ lâu hầu hết các phương diện của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa để ủng hộ tự do hoá về kinh tế thì mối đe doạ theo cảm nhận của họ về bất đồng chính kiến đã không giảm đi mà còn tăng thêm.
Một lý do, một số các nhà phân tích tin, là qua sự phân phát rộng rãi một ý thức hệ Mác xít chỉ đạo, các thể chế của Đảng đã được ban cho các giá trị và ý nghĩa đạo đức, ít nhất theo chính tiêu chuẩn của Đảng, và cũng chính các thể chế này đã trở nên dễ bị tổn thương trước một dường lối chỉ trích mà chất vấn tính hợp pháp các thể chế này hiện đang có.
Kết quả là, theo lời những người như ông Bảo Đồng, hiện nay ít có tự do chỉ trích những nhà lãnh đạo đảng hơn là trong thời điểm năm 1989, cho dù ngay cả trong nội bộ của chính các cán bộ đảng cao cấp hiện có nhóm, gọi là "đảng nội dân chủ phái", ủng hộ tự do hoá hơn về chính trị nhưng họ cốt yếu giới hạn sự thảo luận chính trị chỉ riêng trong nội bộ đảng.
Và nếu có sự khác biệt giữa phong trào dân chủ 1989 và Hiến Chương 08, mà ba người khởi thảo chính ra Hiến Chương này lại trưởng thành từ phong trào đó, chính là ở điểm này. Mặc dù những biến cố quanh Thiên An Môn đã tạo ra những cuộc biểu tình khổng lồ, song người ta đã không thấy sự xuất hiện một văn bản nào đưa ra các yêu cầu chính trị rõ ràng. So với Thiên An Môn, như sử gia Phong Sùng Nghĩa nhận xét trong một bài viết cho tờ Asia-Pacific Journal, những người khởi thảo ra Hiến Chương 08 rõ ràng đã náo nức chấp nhận nền dân chủ mở rộng, đồng thời cũng báo hiệu việc họ phủ nhận nền chuyên chính độc đảng, đây thực là ý tưởng phi chính thống quan trọng nhất.
Ông Kine tin việc tống giam ông Lưu, và sự truy bức ngày càng tăng đối với những người ủng hộ ông đang đánh dấu một sự hội tụ của nhiều vấn đề mà khiến đảng Cộng Sản sợ hãi: từ chuyện sử dụng internet trong vụ Hiến Chương 08 đến sự xuất hiện của ông Lưu, dưới mắt họ, như là một lãnh tụ bất đồng chính kiến qua việc ông tổ chức thành công bản kiến nghị.
"Đảng Cộng Sản biết tiến hoá và biết thích nghi. Đảng không còn bắn người dân trên đường phố. Đảng trấn áp (những nhân vật như Lưu Hiểu Ba) để làm cho các nhà bất đồng chính kiến và giai cấp trung lưu còn non trẻ sợ hãi," ông Kine nói.
Vì thế mặc dù ông Kine tin rằng Trung Quốc có lẽ thích hơn nếu các vụ tấn công tin tặc nhắm vào các hộp thư của các nhà hoạt đông dân quyền vẫn chưa bị khám phá, nhưng sự tiết lộ của đại công ty internet vẫn có ảnh hưởng tương tự như ảnh hưởng từ vụ án ông Lưu, tức là buộc giới luật sư và những người viết blog cũng như các nhà hoạt động khác phải suy nghĩ lại cách thức họ liên lạc lẫn nhau.
Nhà cầm quyền càng ngày càng sử dụng đến chính cách đe dọa này, tức tội " lật đổ nhà nước", để chống lại những ai họ đã kết luận chính thức là đã vượt qua "lằn ranh vô hình" về tự do ngôn luận và về bất đồng chính kiến.
Một người khác bị ở tù như ông Lưu về tội "kích động lật đổ quyền lực nhà nước " là Hồ Giai, người đã lãnh đạo các cuộc biểu tình chống lại nạn phá rừng ở miền bắc Trung Quốc trước khi trở thành nhà hoạt động nhân quyền. Ônh Hồ bị kết án ba năm rưỡi tù vào năm 2008 cũng cùng tội danh này.
Lật đổ, theo cách hiểu thời nay của chế độ, như lời bà Corinna-Barbara Francis, là " bất kỳ điều gì khiến người dân chất vấn sự độc quyền về quyền lực của đảng. Bất chấp những thành tựu về kinh tế, đảng vẫn cương quyết chống lại các cải cách về chính trị. Đảng vẫn muốn mình tiếp tục nắm quyền lực nên không muốn chia sẽ quyền lực với bất kỳ ai."
"Vì thế hiện nay điều mà tầng lớp nắm quyền cao nhất trong đảng sợ là điều họ đã từng sợ vào năm 1989, tức là các nhà trí thức biết đâu có thể khích lệ nên một phong trào bất đồng chính kiến chống đảng rộng lớn hơn trong quần chúng."
Vì thế, gà phải tiếp tục xếp hàng ra pháp trường.
Peter Beaumont là biên tập viên ngoại vụ của tờ The Observer.
Nguồn: Guardian ngày 17 tháng Giêng năm 2010
http://www.guardian.co.uk/world/2010/jan/17/china-terrified-dissent-dissident-chinese
Bản tiếng Việt © 2010 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2010 talawas
Subscribe to:
Posts (Atom)