Dave Lindorff
Trần Quốc Việt dịch
Vào ngày 13 tháng Mười, tờ New York Times đăng một tin nhan đề “Cánh cửa đã mở cho các phúc lợi y tế liên quan đến chất độc da cam“, tin này chắc chắn là tốt đối với các cựu binh Mỹ từng tham dự cuộc chiến tranh Đông Dương. Bài báo này tường thuật rằng mãi đến 38 năm sau khi Bộ Quốc phòng Mỹ ngừng rải chất khai quang diệt cỏ có pha chất dioxin cực độc trên nhiều vùng ở miền Nam Việt Nam, Bộ mới thừa nhận những gì các cựu binh Mỹ đã tuyên bố từ lâu: thêm vào 13 căn bệnh đã được xác định trước đây là do bị nhiễm chất hoá học này gây ra, Bộ cũng chịu trách nhiệm thêm ba bệnh nữa đáng sợ hơn, đó là bệnh Parkinson, bệnh tim do thiếu máu (ischemic heart disease), và bệnh bạch cầu tế bào đa mao (hairy- cell leukemia).
Theo một chính sách mới đã được Bộ Cựu Chiến binh Mỹ chấp nhận, mà qua đó, Bộ này sẽ bắt đầu từ bây giờ cung cấp sự giúp đỡ y tế miễn phí cho bất kỳ ai, nằm trong số 2.1 triệu cựu binh Mỹ đã tham chiến tại Việt Nam, nếu họ có thể chứng minh rằng họ có thể đã bị bệnh do nhiễm chất độc da cam.
Đây là một bước tiến muộn màng nữa trong cuộc tranh đấu kéo dài hàng chục năm của các cựu binh Mỹ trong cuộc chiến Việt Nam để buộc Bộ Quốc phòng và Bộ Cựu Chiến binh phải thừa nhận trách nhiệm của chính phủ Mỹ vì đã làm họ bị nhiễm độc và từ đó gây ra những tổn thuơng vĩnh viễn cho bản thân họ và thường là cho con cháu của họ. Là một trong các loại chất cực độc mà con người từng biết đến, dioxin là chất được biết đã gây ra nhiều bệnh ảnh hưởng đến toàn cơ thể (systemic disease) khá nguy hiểm, bệnh rối loạn miễn dịch (autoimmune illnesses), ung thư và khuyết tật bẩm sinh. (Đây cũng là lời cảnh báo về cách giải quyết nói chung của Chính phủ và Bộ Quốc phòng về các mối hiểm nguy khác sinh ra từ việc họ sử dụng các chất độc trên chiến trường – đáng kể nhất là việc sử dụng ngày càng phổ biến về các vật phóng (projectiles) có chất depleted uranium trong bom, trong đạn đại bác và đạn thường – một cách giải quyết bộc lộ rõ ràng sự thiếu quan tâm đến các ảnh hưởng về sức khỏe đối với lính và dân thường, không cung cấp thông tin cho lính, và từ chối cung cấp sự giúp đỡ về y tế cho những nạn nhân sau cùng.)
Tuy bài báo trên của phóng viên James Dao, người chuyên viết về các vấn đề quân đội, có nhắc đến vai trò trì hoãn mà Chính phủ đã đóng trong suốt câu chuyện trường thiên đáng tiếc này nhưng chẳng có, dù chỉ một lời nào, nhắc đến số nạn nhân còn lớn hơn rất nhiều của chất độc da cam tại Việt Nam, những con người đã hứng trọn trên đầu và trên đất của họ chất hoá học độc hại đã thật sự rải xuống trong thời chiến này, hay cũng chẳng nhắc đến việc Chính phủ cương quyết từ chối nhận bất kỳ trách nhiệm nào cho những hậu quả do chính mình gây ra.
Theo bài báo trên, Bộ Cựu Chiến binh ước tính rằng có đến 200 ngàn cựu binh Mỹ đang bị những bệnh có liên quan đến chất độc da cam. Nhưng theo một vụ kiện thay mặt cho những nạn nhân người Việt, đã bị một chánh án liên bang bác đơn khi ông phán quyết rằng “vụ kiện không có cơ sở”, thì có ít nhất ba triệu người Việt, và có thể có đến 4.8 triệu người cũng đang bị cùng những bệnh giống như các bệnh mà các cựu binh Mỹ và con cái họ đang mắc phải. Người ta ước tính rằng có đến 800 ngàn người Việt ở miền Nam Việt Nam hiện đang gánh chịu những vấn đề về sức khỏe kinh niên gây ra do bị nhiễm chất độc da cam, hoặc do bản thân bị nhiễm hay do cha mẹ hoặc ông bà truyền qua. Đa phần những nạn nhân này, người thì bị chậm phát triển, kẻ thì không đi lại được hay cả hai tay đều bị tàn phế, đều cần được săn sóc thường xuyên.
Tổ chức Veterans For Peace, với một số lớn hội viên là cựu binh thời chiến tranh Việt Nam, đã phát ra lời kêu gọi Mỹ hãy cung cấp tài chính cho các chương trình y tế, giáo dục, giáo dục hướng nghiệp, săn sóc lâu dài, săn sóc tại nhà, và thiết bị dùng để dọn sạch các điểm nóng về dioxin tại Việt Nam -lời kêu gọi mà Quốc hội và tòa Bạch Ốc thường xuyên bỏ qua. Các cuộc xét nghiệm bên ngoài vành đai ba căn cứ Mỹ chính trước đây ở miền Nam Việt Nam đã phát hiện mức độ dioxin cao từ 300 đến 400 lần mức độ an toàn cho phép. Mỹ đã trút xuống những số lượng rất lớn chất độc da cam trải dài đến mấy dặm bao quanh các căn cứ này nhằm khai quang sạch rừng rậm mà các binh lính cộng sản người Việt có thể lợi dụng để tiếp cận các căn cứ, nhưng khi Mỹ rút đi thì những nơi bị rải thuốc này không bao giờ được dọn sạch.
Một tổ chức khác, gồm một số cựu binh Mỹ, trong số họ có người từng là bác sĩ quân y hay là từng là lính trước khi trở thành bác sĩ, là Hội Vietnam Friendship Village Project USA Inc, hiện quyên góp tiền để giúp lập ra những cộng đồng ở Việt Nam để săn sóc cho nạn nhân chất độc da cam.
Tưởng chừng như là môt vết đâm đau đớn vào nguyên tắc chuẩn mực thời chiến khi ta nghĩ đến việc Mỹ dùng hai quả bom nguyên tử vào các mục tiêu dân sự ở Nhật một vài năm sau đó, nhưng trước đó trong Thế chiến thứ Hai, ngay giữa cuộc chiến tàn bạo nhất để giành từng hòn đảo trong cuộc chiến Thái Bình Dương, một cố vấn về pháp lý trong Bộ Quốc phòng Mỹ đã phán quyết rằng yêu cầu của quân đội xin phép được sử dụng thuốc diệt cỏ dại nhằm chống lại người Nhật trên các đảo Thái Bình Dương sẽ bị xem là bất hợp pháp, chiếu theo Công ước Hague (tiền thân của Công ước Geneva ngày nay). Ông phán quyết rằng hành động cố gắng hủy diệt những vụ mùa của dân thường trên các đảo này nhằm cắt đứt nguồn lương thực của quân Nhật sẽ bị coi như là tội ác chống lại nhân loại. Nhưng Mỹ vẫn xúc tiến việc sử dụng thuốc diệt cỏ dại, lập luận rằng cho dù việc làm này là bất hợp pháp, Mỹ vẫn có quyền tự do hành động vì người Nhật đã vi phạm luật chiến tranh trước, khi họ dùng chất độc Strychnine để giết các đội chó bảo vệ trong quân đội tại Siberia. Theo các luật lệ trong chiến tranh, nếu một bên phá luật, bên kia không còn bị luật ràng buộc nữa.
Nhưng Việt Cộng và quân đội Bắc Việt đã không bao giờ sử dụng các chất độc để chống lại quân đội Mỹ hay chống lại quân đội Cộng hòa miền Nam. Và trong chiến tranh Việt Nam, Bộ Quốc phòng Mỹ thậm chí không bao giờ xem xét rằng việc phun thuốc diệt cỏ dại rất độc trên diện tích hơn 1.4 héc ta, 12% tổng diện tích đất của Việt Nam và gần như 25% diện tích đất của miền Nam Việt Nam, có thể xem là tội ác chống lại nhân loại.
Hơn nữa, trước khi bắt đầu chiến dịch khai quang rộng lớn trên, Bộ Quốc phòng Mỹ đã biết về các cuộc nghiên cứu xác định rằng chất độc da cam có pha nhiều chất dioxin rất độc, song vẫn giấu kín các nghiên cứu này, trong đó có các nghiên cứu của các công ty hoá chất như Dow Chemical và Monsanto, và thậm chí không bao giờ báo cho những người lính vốn tiếp xúc hàng ngày với chất này để đề phòng, hay báo cho những người lính được phái đến để đánh nhau trong các vùng đã bị rải đầy thuốc.
Thảm họa y khoa đang diễn ra tại Việt Nam ngày nay, gây ra do Mỹ sử dụng bất hợp pháp chất độc da cam nhằm khai quang cả một quốc gia, có thể là một dịp tốt cho Tổng thống Obama bắt đầu chứng tỏ giá trị Giải Nobel Hòa bình mà ông mới được trao tặng. Ông có thể bắt đầu chiến dịch hoà bình của mình bằng cách cuối cùng tôn trọng lời hứa, mà đã bị bội hứa ngay lập tức, của Tổng thống Richard Nixon, lúc kết thúc các cuộc hoà đàm vào cuối cuộc chiến, để giúp viện trợ hàng tỷ đô la tái thiết cho Việt Nam. Không có một đô la viện trợ nào như đã hứa được trao.
Phóng viên Dao cho biết ông đã không đề cập đến ý nghĩa đối với các nạn nhân dioxin người Việt Nam khi đưa tin về quyết định của Bộ Cựu Chiến binh thừa nhận thêm ba căn bệnh mới có liên quan đến chất độc da cam, bởi vì “tôi chỉ chuyên viết bài về tin cựu binh Mỹ”, và vì ông chỉ đưọc viết bản tin trong 800 từ. Điều này có thể đúng (mặc dù rõ ràng người Việt Nam ít ra cũng được đáng nhắc đến trong bài, dù chỉ một câu). Nhưng trước đó vào ngày 25 tháng Bảy, cũng tờ New York Times khi đăng bài (do Janie Lorber viết, chứ không phải do Dao) về sự khám phá của một ban chuyên gia thuộc viện y khoa quốc gia về mối liên hệ giữa bệnh Parkinson, bệnh tim do thiếu máu (ischemic heart disease), và bệnh bạch cầu với chất độc da cam, cũng không nhắc đến các nạn nhân người Việt. Trong trường hợp này, về mặt báo chí, sự vô tâm này khó mà tha thứ được, vì đây là bài viết về khám phá mới trong y khoa, chứ không phải bài về quyết định chính sách liên quan đến phúc lợi y tế dành cho các cựu binh Mỹ.
Ngay từ bây giờ, cách duy nhất để tờ New York Times có thể vớt vát một chút danh tiếng báo chí của mình về chủ đề này là yêu cầu các phóng viên Dao, Lorbe, và các phóng viên khác viết một bài về tác động chất độc da cam do Mỹ sử dụng đối với nhân dân Việt Nam. Họ có thể bắt đầu bằng việc gọi điện đến một cựu binh Mỹ ở các Hội Veterans For Peace hay Vietnam Friendship Village Project USA.
Nguồn: Dave Lindorff, “Agent Orange in Vietnam: Ignoring the crimes before our eyes”, The Huffington Post, 17/10/2009. Tác giả đã chấp thuận cho người dịch dịch sang tiếng Việt và có giúp người dịch hiểu rõ một câu trong bài. Chân thành cảm ơn tác giả.
Bản tiếng Việt © 2009 Trần Quốc Việt
Bản tiếng Việt © 2009 talawas blog
7.10.09
LƯƠNG TÂM VÀ TÔN GIÁO
Trần Quốc Việt
Qua các vụ trấn áp tôn giáo gần đây, đặc biệt qua sự hành xử của chế độ trong vụ Bát Nhã, niềm hy vọng về một sự thức tỉnh lương tâm trong tầng lớp cầm quyền của chế độ đã thành ảo vọng. Chế độ tự nó không có lương tâm, nhưng chế độ là tập hợp những cá nhân cụ thể ít nhiều đều có lương tâm hẳn hoi. Song đứng trước một cỗ máy cai trị sẵn sàng nghiền nát tất cả những gì nó xem là vật cản trong hiện tại và tương lai, lương tâm của nhiều cá nhân tự động chùn lại và khép mình trong tiếng thở dài cam phận hay lẩn khuất dưới bóng của mái ấm gia đình hay danh vọng.
Chế độ toàn trị sống được là nhờ bạo lực và dối trá. Hai cái này hợp lại và, qua thời gian, đã bào mòn dần các lớp men lương tâm tích lũy từ thời sơ khai của tiến hóa. Cho nên ở Việt Nam có cảnh một em bé bị chủ của quán phở hành hạ dã man bao năm trời mà không ai lên tiếng. Cảnh đám người hiếu kỳ dửng dưng nhìn người bị đụng xe nằm trên đường phố. Cảnh đám đông bị lùa vào các quán cơm tù ngay khi các xe khách ghé vào. Cảnh đánh ghen mà nạn nhân bị lột trần truồng, bị xúc phạm thân thể trước hàng trăm cặp mắt thờ ơ bên lề. Cảnh bao thiếu nữ lui tới các nơi phá thai công khai như đi chợ. Cuộc sống nhân phẩm đã bị hủy diệt từ rất lâu ở mức độ cá nhân trong thời gian quá dài so với đời người, cho nên các sự kiện đàn áp tôn giáo vừa qua là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly vô lương tâm của chế độ khi nó dùng bạo lực trấn áp giới tu sĩ và những người thực hành tôn giáo. Biến cố Bát Nhã là đỉnh cao của bạo lực vì làm tổn thương đến nền văn minh tâm linh và đạo lý của con người. Quyền lực xui khiến những kẻ bên trên cam tâm đi ngược lại hướng tiến hoá của lương tâm con người, còn sự sợ hãi làm đa số ở phía dưới câm lặng và nhẫn nhục trước bao cảnh bất công cá nhân trong đời thường, rồi tiếp tục ngoảnh mặt trước những cảnh bất công lớn hơn ngoài xã hội, rồi dần biến thành một đám đông thầm lặng cùng khiếm khuyết một phần lương tâm bình thường, như lương tâm bình thường của người dân trong các nước theo thể chế dân chủ và tự do.
Nền tảng của tôn giáo là sự yêu thương, đối nghịch với sự bạo lực chính trị nhân danh ý thức hệ. Nhưng ý thức hệ nào chăng nữa cũng chỉ là phần thế tục tạm bợ, còn tôn giáo là lĩnh vực thiêng liêng trường cửu như lòng yêu nước tiềm tàng trong mỗi dân tộc. Theo nhà văn người Anh George Orwell, Marx nhìn tôn giáo với ánh mắt trân trọng và nhân ái, khác hẳn với những tín đồ của bạo lực mượn tên ông làm điều Ác. Tác giả của Trại súc vật viết như sau:
“Chính những kẻ hủy diệt nền văn minh của chúng ta đôi lúc cũng ý thức về điều này. Câu nói nổi tiếng của Marx, ‘tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân’, thường bị cắt ra khỏi ngữ cảnh của nó rồi bị gán một ý nghĩa khác một cách tinh tế nhưng vẫn rất khác ý nghĩa ông muốn nói đến. Marx, dù sao trong đoạn văn ấy, đã không nói rằng tôn giáo đơn thuần là một liều thuốc phiện do bên trên ban xuống; ông nói rằng tôn giáo là cái gì đó do nhân dân tạo ra cho mình để cung cấp một nhu cầu mà ông thừa nhận là có thực. ‘Tôn giáo là tiếng thở dài của linh hồn trong một thế giới không có linh hồn. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.’ Phải chăng điều ông muốn nói đơn thuần rằng con người không sống chỉ nhờ vào bánh mì, rằng sự hận thù là không đủ, rằng một thế giới đáng sống không thể dựa trên nền tảng của ‘chủ nghĩa hiện thực’ và súng máy? Giá mà ông thấy trước được ảnh hưởng trí thức của ông sẽ lớn lao như thế, có lẽ ông sẽ lặp lại lời của mình thường xuyên hơn và vang vọng hơn.”[1]
Tôi đọc ở đâu đó rằng trước khi nhắm mắt, Marx xin gặp một linh mục và nói rằng “Tôi không phải là một người mác-xít”.
Người ta nhìn thấy biểu tượng của thế giới không có linh hồn ấy qua bức hình Mao nhìn xuống cuộc duyệt binh ở Quảng trường Thiên An Môn vừa qua. Sáu mươi năm cái Ác ngự trị được kỷ niệm bằng cuộc phô trương trơ trẽn công cụ của bạo lực – súng ống và binh lính – ở một nơi mà mùi máu oan khuất của bao thanh niên Trung Quốc dường như vẫn còn phảng phất đâu đây, cho dù bao dấu vết của cuộc thảm sát trong đêm ấy đã được chùi rửa sạch bóng từ hai mươi năm về trước.
Trái ngược hoàn toàn với Mao, Đức Dalai Lama là biểu tượng của thương yêu và là niềm hy vọng vào vẻ đẹp vĩnh cửu của lòng nhân ái trong một thế giới vẫn còn cái Ác. Ông thường kể câu chuyện rằng các nhà sư Tây Tạng, sau khi đào thoát đến Ấn Độ, đã đến gặp ông, tâm sự rằng điều họ sợ nhất khi đang ở trong tù là họ sợ một ngày nào đó họ không còn thương yêu những kẻ cai tù hành hạ họ nữa. Tín đồ thật sự còn sót lại của Mao ở Trung Quốc không nhiều, nhưng số lượng người mến phục Đức Dalai Lama ngày càng tăng ở nhiều quốc gia. Nếu Mao từng nói: “Chủ nghĩa cộng sản không phải là thương yêu. Chủ nghĩa cộng sản là cái búa chúng ta dùng đẻ đập nát kẻ thù”, thì Đức Dalai Lama nói, “Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là tình thương.” Vì thế ta không lấy làm lạ khi biết rằng vài tuần trước lúc nhắm mắt, ông Triệu Tử Dương đã ngỏ ý nhờ Đức Dalai Lama cầu siêu cho ông. Ước vọng của nhà lãnh đạo một thời của Trung Quốc, mà số phận gắn liền với sự kiện Thiên An Môn, đã được toại nguyện[2]. Và hôm nay, giá mà tận mắt chứng kiến cảnh các tăng ni đầu xanh tuổi trẻ ở Bát Nhã đứng âm thầm dưới mưa hàng giờ nhìn cái Ác hoành hoành qua những cánh tay bạo lực nối dài của chế độ, những người dân bị kích động, Đức Dalai Lama chắc sẽ xót thương cho những quần chúng xã hội đen này nhiều hơn cả các tăng ni bị nạn như ông từng nhắc nhở người Tây Tạng rằng công an hay cán bộ thi hành lệnh của chế độ “theo luật Nhân Quả, họ sẽ dễ bị đầu thai vào các kiếp đời khốn khổ và hèn mọn, và bổn phận của chúng ta đối với họ, cúng như đối với mọi sinh linh khác, là giúp họ lên được Niết Bàn, thay vì để họ chìm xuống các tầng thấp hơn của sự luân hồi.”[3]
Cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Jesus kêu lên lần cuối khi bị đóng đinh trên cây thập giá: “Cha ơi, hãy tha thứ cho họ; vì họ không biết việc họ làm…” Tiếng kêu bi thương ấy đã hiện lên trong lòng bao tín hữu Thiên chúa ở Tam Toà và Đồng Hới khi thấy các cha và linh mục bị đánh đập, nhà thờ bị xây kín. Tinh thần thương yêu ấy càng đậm nét hơn qua ánh đạo vàng từ bi và qua những giọt nước mắt nhòe trong mưa của bao mái đầu xanh khao khát muốn tìm lại lương tâm cá nhân đích thực mà thế hệ cha anh đã đánh mất trong đêm dài mịt mùng của lịch sử.
© 2009 Trần Quốc Việt
© 2009 talawas blog
--------------------------------------------------------------------------------
[1] George Orwell, My Country Right Or Left 1940-1943, Edited by Sonia Orwell and Ian Augus,Harcourt Brace Jovanovich 1968, trang 18
[2] Time Magazine, ấn bản phát hành tại Mỹ 19/3/2008
[3] My Land and My People, Memoirs of the Dalai Lama of Tibet, Potala
Corporation, 1983 trang 233-234
Qua các vụ trấn áp tôn giáo gần đây, đặc biệt qua sự hành xử của chế độ trong vụ Bát Nhã, niềm hy vọng về một sự thức tỉnh lương tâm trong tầng lớp cầm quyền của chế độ đã thành ảo vọng. Chế độ tự nó không có lương tâm, nhưng chế độ là tập hợp những cá nhân cụ thể ít nhiều đều có lương tâm hẳn hoi. Song đứng trước một cỗ máy cai trị sẵn sàng nghiền nát tất cả những gì nó xem là vật cản trong hiện tại và tương lai, lương tâm của nhiều cá nhân tự động chùn lại và khép mình trong tiếng thở dài cam phận hay lẩn khuất dưới bóng của mái ấm gia đình hay danh vọng.
Chế độ toàn trị sống được là nhờ bạo lực và dối trá. Hai cái này hợp lại và, qua thời gian, đã bào mòn dần các lớp men lương tâm tích lũy từ thời sơ khai của tiến hóa. Cho nên ở Việt Nam có cảnh một em bé bị chủ của quán phở hành hạ dã man bao năm trời mà không ai lên tiếng. Cảnh đám người hiếu kỳ dửng dưng nhìn người bị đụng xe nằm trên đường phố. Cảnh đám đông bị lùa vào các quán cơm tù ngay khi các xe khách ghé vào. Cảnh đánh ghen mà nạn nhân bị lột trần truồng, bị xúc phạm thân thể trước hàng trăm cặp mắt thờ ơ bên lề. Cảnh bao thiếu nữ lui tới các nơi phá thai công khai như đi chợ. Cuộc sống nhân phẩm đã bị hủy diệt từ rất lâu ở mức độ cá nhân trong thời gian quá dài so với đời người, cho nên các sự kiện đàn áp tôn giáo vừa qua là giọt nước cuối cùng làm tràn cái ly vô lương tâm của chế độ khi nó dùng bạo lực trấn áp giới tu sĩ và những người thực hành tôn giáo. Biến cố Bát Nhã là đỉnh cao của bạo lực vì làm tổn thương đến nền văn minh tâm linh và đạo lý của con người. Quyền lực xui khiến những kẻ bên trên cam tâm đi ngược lại hướng tiến hoá của lương tâm con người, còn sự sợ hãi làm đa số ở phía dưới câm lặng và nhẫn nhục trước bao cảnh bất công cá nhân trong đời thường, rồi tiếp tục ngoảnh mặt trước những cảnh bất công lớn hơn ngoài xã hội, rồi dần biến thành một đám đông thầm lặng cùng khiếm khuyết một phần lương tâm bình thường, như lương tâm bình thường của người dân trong các nước theo thể chế dân chủ và tự do.
Nền tảng của tôn giáo là sự yêu thương, đối nghịch với sự bạo lực chính trị nhân danh ý thức hệ. Nhưng ý thức hệ nào chăng nữa cũng chỉ là phần thế tục tạm bợ, còn tôn giáo là lĩnh vực thiêng liêng trường cửu như lòng yêu nước tiềm tàng trong mỗi dân tộc. Theo nhà văn người Anh George Orwell, Marx nhìn tôn giáo với ánh mắt trân trọng và nhân ái, khác hẳn với những tín đồ của bạo lực mượn tên ông làm điều Ác. Tác giả của Trại súc vật viết như sau:
“Chính những kẻ hủy diệt nền văn minh của chúng ta đôi lúc cũng ý thức về điều này. Câu nói nổi tiếng của Marx, ‘tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân’, thường bị cắt ra khỏi ngữ cảnh của nó rồi bị gán một ý nghĩa khác một cách tinh tế nhưng vẫn rất khác ý nghĩa ông muốn nói đến. Marx, dù sao trong đoạn văn ấy, đã không nói rằng tôn giáo đơn thuần là một liều thuốc phiện do bên trên ban xuống; ông nói rằng tôn giáo là cái gì đó do nhân dân tạo ra cho mình để cung cấp một nhu cầu mà ông thừa nhận là có thực. ‘Tôn giáo là tiếng thở dài của linh hồn trong một thế giới không có linh hồn. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.’ Phải chăng điều ông muốn nói đơn thuần rằng con người không sống chỉ nhờ vào bánh mì, rằng sự hận thù là không đủ, rằng một thế giới đáng sống không thể dựa trên nền tảng của ‘chủ nghĩa hiện thực’ và súng máy? Giá mà ông thấy trước được ảnh hưởng trí thức của ông sẽ lớn lao như thế, có lẽ ông sẽ lặp lại lời của mình thường xuyên hơn và vang vọng hơn.”[1]
Tôi đọc ở đâu đó rằng trước khi nhắm mắt, Marx xin gặp một linh mục và nói rằng “Tôi không phải là một người mác-xít”.
Người ta nhìn thấy biểu tượng của thế giới không có linh hồn ấy qua bức hình Mao nhìn xuống cuộc duyệt binh ở Quảng trường Thiên An Môn vừa qua. Sáu mươi năm cái Ác ngự trị được kỷ niệm bằng cuộc phô trương trơ trẽn công cụ của bạo lực – súng ống và binh lính – ở một nơi mà mùi máu oan khuất của bao thanh niên Trung Quốc dường như vẫn còn phảng phất đâu đây, cho dù bao dấu vết của cuộc thảm sát trong đêm ấy đã được chùi rửa sạch bóng từ hai mươi năm về trước.
Trái ngược hoàn toàn với Mao, Đức Dalai Lama là biểu tượng của thương yêu và là niềm hy vọng vào vẻ đẹp vĩnh cửu của lòng nhân ái trong một thế giới vẫn còn cái Ác. Ông thường kể câu chuyện rằng các nhà sư Tây Tạng, sau khi đào thoát đến Ấn Độ, đã đến gặp ông, tâm sự rằng điều họ sợ nhất khi đang ở trong tù là họ sợ một ngày nào đó họ không còn thương yêu những kẻ cai tù hành hạ họ nữa. Tín đồ thật sự còn sót lại của Mao ở Trung Quốc không nhiều, nhưng số lượng người mến phục Đức Dalai Lama ngày càng tăng ở nhiều quốc gia. Nếu Mao từng nói: “Chủ nghĩa cộng sản không phải là thương yêu. Chủ nghĩa cộng sản là cái búa chúng ta dùng đẻ đập nát kẻ thù”, thì Đức Dalai Lama nói, “Tôn giáo của tôi rất đơn giản. Tôn giáo của tôi là tình thương.” Vì thế ta không lấy làm lạ khi biết rằng vài tuần trước lúc nhắm mắt, ông Triệu Tử Dương đã ngỏ ý nhờ Đức Dalai Lama cầu siêu cho ông. Ước vọng của nhà lãnh đạo một thời của Trung Quốc, mà số phận gắn liền với sự kiện Thiên An Môn, đã được toại nguyện[2]. Và hôm nay, giá mà tận mắt chứng kiến cảnh các tăng ni đầu xanh tuổi trẻ ở Bát Nhã đứng âm thầm dưới mưa hàng giờ nhìn cái Ác hoành hoành qua những cánh tay bạo lực nối dài của chế độ, những người dân bị kích động, Đức Dalai Lama chắc sẽ xót thương cho những quần chúng xã hội đen này nhiều hơn cả các tăng ni bị nạn như ông từng nhắc nhở người Tây Tạng rằng công an hay cán bộ thi hành lệnh của chế độ “theo luật Nhân Quả, họ sẽ dễ bị đầu thai vào các kiếp đời khốn khổ và hèn mọn, và bổn phận của chúng ta đối với họ, cúng như đối với mọi sinh linh khác, là giúp họ lên được Niết Bàn, thay vì để họ chìm xuống các tầng thấp hơn của sự luân hồi.”[3]
Cách đây hơn hai ngàn năm, Chúa Jesus kêu lên lần cuối khi bị đóng đinh trên cây thập giá: “Cha ơi, hãy tha thứ cho họ; vì họ không biết việc họ làm…” Tiếng kêu bi thương ấy đã hiện lên trong lòng bao tín hữu Thiên chúa ở Tam Toà và Đồng Hới khi thấy các cha và linh mục bị đánh đập, nhà thờ bị xây kín. Tinh thần thương yêu ấy càng đậm nét hơn qua ánh đạo vàng từ bi và qua những giọt nước mắt nhòe trong mưa của bao mái đầu xanh khao khát muốn tìm lại lương tâm cá nhân đích thực mà thế hệ cha anh đã đánh mất trong đêm dài mịt mùng của lịch sử.
© 2009 Trần Quốc Việt
© 2009 talawas blog
--------------------------------------------------------------------------------
[1] George Orwell, My Country Right Or Left 1940-1943, Edited by Sonia Orwell and Ian Augus,Harcourt Brace Jovanovich 1968, trang 18
[2] Time Magazine, ấn bản phát hành tại Mỹ 19/3/2008
[3] My Land and My People, Memoirs of the Dalai Lama of Tibet, Potala
Corporation, 1983 trang 233-234
Subscribe to:
Posts (Atom)